VIỆT MA TÂN LỤC – TẬP 6 | CHƯƠNG 10 : OÁN LINH
|Lã Nì Khai không dám có chút chậm trễ nào, lập tức huy động những người còn khỏe mạnh trong thôn làm theo lời dặn của Đốc. Khi xác nhận được cách của Đốc quả thật có thể làm ẩn đi những mạch máu trên người bệnh thì đã là một giờ đêm. Lão thở phào, quay về nhà sàn nghỉ ngơi.
– Thầy chưa ngủ à? – Khi về tới nhà, lão nhìn thấy Đốc vẫn chưa ngủ mà đang lặng lẽ đứng ở hành lang giống như một bóng ma nhìn bầu trời tối đen.
– Xong việc rồi? – Đốc không quay đầu, vẫn giữ nguyên tư thế ngẩng đầu nhìn trời, nói.
– Phương pháp của thầy quả thật hiệu nghiệm, những âm độc kia đã biến mất, mọi người đều đã tỉnh lại, chỉ có hai, ba người sức khỏe suy nhược, ta đã sắp xếp sáng ngày mai sẽ đưa họ tới trạm xá xã để bác sĩ khám lại.
– Có hiệu quả là được rồi! – Đốc im lặng một hồi, nói. – Sáng ngày mai ông đưa ta tới bìa rừng nơi mà thầy cúng Sìn Dinh làm lễ lần trước. Tốt nhất cũng chuẩn bị một phần đồ lễ giống với hôm đó.
– Thầy muốn…? – Lã Nì Khai không hiểu, hỏi.
– Âm độc mặc dù đã được hóa giải, nhưng không khí tà ác bao trùm lấy Khe Váp càng lúc càng đậm, sớm muộn cũng sẽ lại có chuyện quỷ dị xuất hiện trong thôn. Nhất định trước khi có chuyện xảy ra, phải tìm ra và tiêu diệt nguồn cơn gây ra không khí tà ác này.
*
Sáng sớm hôm sau, Đốc và Sìn Dinh đi theo trưởng thôn tới bìa rừng thiêng nơi Lã Sìn Dinh làm lễ. Nơi này đã bày sẵn bàn gỗ, đồ cúng, vật hiến tế giống với lần làm lễ trước, chỉ không có người dân tới xem lễ vì hắn nói với trưởng thôn không cần thông báo cho người dân, tránh có biến cố bất ngờ xảy ra ở nơi này.
– Trưởng thôn, lát nữa có thể sẽ có nguy hiểm, ông ở đây cũng không có tác dụng gì, tốt nhất cứ về bản trước đi. – Đốc nhìn bàn gỗ lễ, lại nhìn khu rừng bị sương mù bao phủ không thấy rõ cảnh vật ở phía sau, cuối cùng quay sang Lã Sìn Dinh cạnh mình nói. – Thầy bắt đầu làm lễ đi, cứ theo trình tự bình thường. Yên tâm, có ta quan sát, sẽ không có việc gì.
– Vậy ta về thôn trước, cần gì thầy cứ báo ta một tiếng.
– Thầy Đốc, ta biết rồi. – Lã Sìn Dinh mặc bộ đồ thầy cúng, gật đầu, đi tới trước chiếc bàn gỗ đen, bắt đầu làm lễ.
Đốc nhìn Sìn Dinh làm lễ, hai mắt đã dần chuyển thành màu đen tuyền, sâu không thấy đáy. Việc đột nhiên phun máu, ngất đi lần trước vẫn để lại tâm lý sợ hãi trong lòng Lã Sìn Dinh, nhưng việc này liên quan trực tiếp đến an nguy của cả Khe Váp, cho nên dù lo sợ nhưng Sìn Dinh vẫn đồng ý làm lễ cúng thần tại bìa rừng thiêng.
Mọi việc diễn ra khá thuận lợi, lão đã thực hiện gần xong nghi thức cúng bái mà vẫn không có bất kỳ điều khác thường gì xảy ra. Sìn Dinh thở phào, cho rằng biến cố lần trước sẽ không lặp lại, nhưng đúng lúc này, đầu óc lão quay cuồng, ánh mắt mơ hồ, máu trong người giống như bị thứ gì đó điều khiển bắt đầu chảy càng lúc càng nhanh, mạnh khiến các thành mạch máu phồng to, cảm tưởng có thể nổ tung bất cứ lúc nào. Sìn Dinh không cách nào thở nổi, lão ôm lấy cổ mình ngã quỵ xuống, lăn lộn trên mặt đất, thê thảm vô cùng.
Gần như ngay khi Lã Sìn Dinh ngã xuống, hai hốc mắt đen kịt của Đốc chớp lên hai đốm sáng màu xanh, rồi đột ngột biến mất. Đốc lấy từ trong túi áo ra một lá bùa màu vàng ném lên không trung, tay trái bắt ấn “liên hoa chỉ”, sau đó liên tục biến ảo mười mấy loại thủ ấn khác nhau, miệng lẩm bẩm chú ngữ, cuối cùng hô lớn một tiếng “Trấn”.
Lá bùa Đốc ném lên không trung đột nhiên bốc cháy, sau đó hóa thành một luồng lửa lớn phóng tới chỗ Lã Sìn Dinh rồi nổ tung, hình thành một tấm lưới lửa bao trùm lấy toàn bộ không gian phía trên người lão.
Ngay khi tấm lưới lửa hình thành, không gian bên trong vốn trống rỗng bỗng hiện ra một đám mây máu giống như một trái tim sống không ngừng vặn vẹo muốn thoát khỏi lưới lửa trói buộc nhưng mỗi khi đám mây máu chạm vào tấm lưới đều bị ngọn lửa thiêu đốt phả ra từng tiếng xì xì, sau đó co lại, không cách nào thoát ra. Lúc này, trong đám mây máu bắt đầu vang lên vô số âm thanh kỳ dị, hỗn tạp, tiếng khóc lóc nỉ non, tiếng rên rỉ của phụ nữ, tiếng hét giận dữ của những người đàn ông… tiếng rắn rít, hổ gầm, tiếng các loài động vật khác…
Đốc lục trong ba lô, lấy ra một thanh kiếm đồng, nói là kiếm nhưng nó khá ngắn, chỉ dài tựa một con dao đi rừng của người dân tộc. Hắn mở nắp một lọ chu sa dạng dịch mang theo bên người, lấy ngón tay trỏ chấm vào trong chu sa, vẽ lên trên thân kiếm đồng một hàng chữ triện cổ, sau đó hai tay bắt đầu kết ấn. Loại thủ ấn này, độ khó cao hơn những loại thủ ấn hắn kết trước đó; ấn vừa kết xong, cả người hắn đã ướt đẫm mồ hôi, làn da rám nắng tái nhợt đi. Thanh kiếm đồng dưới đất, theo sự hình thành thủ ấn bắt đầu rung lắc, sau đó bay lơ lửng trước người hắn, mấy chữ triện cổ trên thân kiếm vỡ ra, hóa thành một ngọn lửa trùm lấy kiếm đồng, sau đó kiếm lửa xé gió bay về phía đám mây máu.
Nhưng khi thanh kiếm lửa còn chưa bay đến lưới lửa, bên trong đám mây máu bỗng truyền ra một tiếng nổ lớn giống như âm thanh khi nổ súng kíp. Lưới lửa tưởng chừng bền chắc không thể phá đột nhiên rách ra một vết lớn, đám mây máu giống như có sinh mệnh, theo lỗ thủng này, phá vây ra bên ngoài, sau đó bay vào trong sương mù của rừng thiêng, biến mất không dấu vết.
Thanh kiếm lửa đâm vào khoảng không, bay lượn mấy vòng không tìm được mục tiêu, sau đó hao hết năng lượng, rơi xuống mặt đất cách chỗ Sìn Dinh nằm mấy mét.
– Oán khí thật mạnh!
Đốc nhìn đám mây máu phá tan lồng giam của hắn, không nhịn được ho khan, liên tiếp thi triển mật thuật khiến tâm lực hao tổn không ít. Đốc đi tới chỗ Lã Sìn Dinh đang nằm trên mặt đất, hỏi thăm.
– Thầy không sao chứ?
– Ta không sao, may mà thầy ra tay kịp thời, nếu không ta quả thực đã đi gặp ông bà ông vải rồi. – Lã Sìn Dinh khó nhọc ngồi dậy, mệt mỏi đáp. – Thầy Đốc, đám mây máu kia là gì?
– Một oán linh rất mạnh. – Đốc vừa đi nhặt thanh kiếm đồng, vừa nói. – Nếu ta đoán không nhầm, thứ mà thôn dân Khe Váp coi là thần rừng để thờ cúng hằng năm chính là nó.
– Nếu nó thực sự là thứ chúng ta thờ cúng, vậy vì sao nó đột nhiên lại muốn hại chết dân bản chúng ta. – Lã Sìn Dinh khó hiểu, hỏi. – Nếu giết người trong bản, còn ai sẽ thờ cúng, hiến tế cho nó.
– Như thế nào gọi là oán linh? Cái gọi oán linh chính là hồn phách không có trí tuệ, chỉ có oán giận, thù hận, giết chóc, làm sao có thể dùng tư duy bình thường để lý giải. Hẳn là mấy người từ thành phố kia đi vào rừng thiêng chọc giận nó, kích phát oán khí trong nó khiến nó giết người.
– Thầy Đốc, vậy phải làm sao bây giờ? – Lã Sìn Dinh nhớ đến thời khắc cận kề cái chết vừa rồi, không khỏi run rẩy, sợ hãi nói.
– Con oán linh kia mặc dù phá được pháp của ta trốn đi nhưng bản thân nó cũng bị lửa phép làm bị thương không nhẹ, trong thời gian ngắn sẽ không làm hại người. Nhưng đợi nó lành lại, tất nhiên sẽ trả thù thôn dân trong bản, ta cũng không thể ở lại Khe Váp này quá lâu, cho nên lát nữa ta sẽ đi vào rừng tìm nó. – Đốc trầm ngâm một hồi, nói.
– Thầy Đốc, rừng thiêng là địa bàn của con oán linh kia, ta sợ thầy sẽ gặp nguy hiểm.
– Ta biết, khu rừng này có một lực lượng đặc thù nào đó che đậy phương hướng, biến nó thành một mê cung rất dễ bị trầm luân bên trong. Chính vì vậy, ta đưa cho ông một cây nhang “dẫn hồn” do ta chế, có lưu lại hơi thở hồn phách của ta. Ba ngày sau nếu ta vẫn chưa về thôn, ông mang cây hương này đến đây đốt, sau đó đợi một ngày, nếu vẫn không thấy ta ra thì khả năng ta không ra được nữa. Ông đi đến Đồng Ngần báo cho ông nội ta, sau đó không cần làm gì nữa.
– Thầy Đốc, nếu như vậy, không bằng thầy đừng vào rừng vội, chúng ta đi mời Thượng sư tới, sẽ an toàn hơn.
– Ông không cần quá lo lắng, điều ta vừa nói kia chỉ là dự tính đến tình huống xấu nhất có thể xảy ra mà thôi, thực tế cũng không phải nguy hiểm như vậy. – Đốc lấy từ trong ba lô của mình một hộp gỗ nhỏ dài, bên trong chứa bảy nén nhang màu trắng, phần chân màu đen. Hắn lấy ra một cây nhang đưa cho Lã Sìn Dinh, sau đó đeo ba lô lên vai, đi về phía khu rừng thiêng. – Đây là một lần khảo nghiệm xem ta có thể bước chân vào con đường Thượng sư hay không, ông nội dù biết có nguy hiểm cũng sẽ không ra tay, vậy nên ông tốt nhất cứ làm theo lời của ta.
…
Lúc này, toàn bộ rừng cây đã bị một lớp sương mù đặc sệt bao phủ, ngăn cản tầm nhìn khiến mắt thường không quan sát được bất cứ thứ gì. Nhưng lớp sương mù hoàn toàn không gây được khó khăn gì cho Đốc, hai mắt hắn dần chuyển thành màu đen láy, sâu hoắm không thấy đáy, thu lại toàn bộ cảnh tượng xung quanh vào trong đầu.
Đốc nhìn rừng cây rậm rạp không thấy điểm cuối; muốn trong hoàn cảnh này tìm được oán linh kia quả thật không dễ dàng. Hắn tháo ba lô sau lưng xuống, lấy từ trong đó ra một tờ giấy vàng, sau đó gấp thành hình một con hạc giấy. Gấp xong, hắn lấy ra một chiếc chuông đồng, bên trong có một quả lục lạc nhỏ. Sau đó, một tay hắn lắc chuông đồng phát ra từng tiếng “đinh đinh”, trong miệng lẩm nhẩm một loại chú ngữ tối nghĩa nào đó; mấy hơi thở sau chỉ thấy hạc giấy bốc cháy, hóa thành một con hạc lửa nhỏ.