BÍ ẨN TRÁI TIM SÓI – CHƯƠNG IV: TRUYỀN THUYẾT TRĂNG XANH

Rating: 5.0/5. From 2 votes.
Please wait...

Người đàn ông mở cửa bước vào. Helena quay qua nhìn. Ông ta mặc chiếc áo trông khá giống áo của mấy bức tượng, tuy nhiên áo của ông đơn giản hơn rất nhiều, không có những họa tiết tinh xảo như áo trên mấy bức tượng, mà chỉ là vải trơn, màu trắng; chạy dài theo cổ áo và tay áo là những hình màu đen, với những nét gạch liền hoặc gạch đứt – Helena không hiểu ý nghĩa họa tiết này. Người đàn ông cúi đầu, mỉm cười chào, dáng vẻ cung kính, lễ độ.

– Xin chào. Xin hai vị thứ lỗi. Nhận được tin hai vị ghé thăm, tôi vội vàng tới đây ngay. Hai vị mau dùng trà đi.

Ông ta nâng một tay, ý mời uống trà, ngồi xuống một chiếc nệm, phía đối diện Helena và Ares. Helena quan sát người đàn ông trước mặt. Ông ta không cao lắm, thân hình xương xương, đôi mắt nhỏ, hơi xếch. Cũng như râu tóc, lông mày ông ta khá dài. Wang ngồi thẳng lưng, khóe miệng hơi cong lên tạo nét tươi tỉnh cho toàn khuôn mặt. Người đàn ông toát lên thần thái tự tại, thoải mái, nhẹ nhõm lạ thường.

– Tôi là Wang, chắc hai vị đã biết. Không biết danh tính của hai vị đây là?

– Tôi là Ares, thầy thuốc, sống trong thị trấn này. Còn đây là Helena, cô ấy là du khách ghé qua đây, chẳng may có chút chuyện cần giúp đỡ.

Ares ra dấu cho Helena bỏ lễ vật ra. Helena lấy từ chiếc túi da đeo chéo vai ra một thỏi bạc, một thỏi vàng, một viên đá mắt mèo và cuối cùng là viên đá thiêng sông Thekla.

Mắt Wang sáng lên khi nhìn thấy vật phẩm cuối cùng; rõ ràng ông ta không giấu nổi niềm vui khi nhìn thấy viên đá kia. Bỏ chén trà trên tay xuống, hai tay đặt trên bàn khẽ run lên, ánh mắt chăm chú dồn cả vào viên đá lục giác tỏa ra ánh sáng tinh khiết lấp lánh.

– Đây là viên đá thiêng sông Thekla trong truyền thuyết đó ư?

– Đúng vậy.

Helena đẩy mấy món lễ vật về gần phía Wang hơn. Hấp lực mạnh mẽ của viên đá khiến ông ta không thể rời mắt khỏi. Wang hơi chần chừ, rồi cũng đưa tay chạm vào; cảm giác ấm áp của viên đá khiến trái tim Wang như ngàn vạn cánh hoa đào đang tung bay theo gió ngoài trời kia. Đã bao nhiêu năm ròng tu luyện, tìm cách sở hữu vật phẩm này mà không thể. Thật không ngờ, hai vị khách lạ mặt này lại mang tới món đồ quý giá mà ông ta hằng ao ước bấy lâu nay. Ngón tay Wang run lên vì sung sướng. Ông ta vuốt ve viên đá, ngắm nhìn nó thật lâu, soi viên đá ra phía ánh nắng, để cảm nhận vẻ đẹp lấp lánh của nó, để cảm nhận niềm hạnh phúc dâng lên trong lòng.

Một hồi lâu sau, Wang đặt viên đá xuống, nhưng ánh mắt vẫn lưu luyến không muốn rời. Khóe môi khẽ giật giật, âm sắc trong giọng nói có chút run rẩy, Wang hỏi.

– Không biết hai vị mang lễ vật hậu như thế này là có việc gì muốn nhờ tới kẻ tài hèn sức mọn tôi đây?

Ares đưa trang sách cổ có lời nguyền về phía Wang.

– Chúng tôi muốn ông giải thích ý nghĩa lời nguyền cổ này. Tôi nghe nói, từ rất lâu rồi, rằng nó có liên quan tới trăng xanh cực thịnh và sức mạnh huyền bí trong đêm trăng xanh ấy.

 “Âm cực dương sinh

Vô thủy vô chung

Lửa địa ngục bùng cháy”

Wang lẩm bẩm thật lâu rồi mới ngước lên nhìn Helena và Ares, mắt hơi nheo lại.

– Tôi nên giải thích với hai vị từ đâu đây?

– Tất cả. Chúng tôi muốn biết tất cả. – Ares nói.

Wang nhắm mắt lại, dường như đang sắp xếp mọi thứ để chuẩn bị giải thích cho hai vị khách của mình. Một lát sau, ông ta mở mắt ra, nhìn vào khoảng không vô định.

*

Vũ trụ vốn được tạo thành từ âm và dương. Âm là thể lạnh lẽo, trầm tĩnh, ở trong, hướng xuống, hữu hình, đen tối, tiêu cực; dương là nóng rực, hoạt động, ở ngoài, hướng lên, vô hình, sáng chói, tích cực… Nhưng âm dương không phải hai phạm trù đối lập hoàn toàn, mà chúng vừa đối lập vừa bổ trợ lẫn nhau, thậm chí trong dương có âm, trong âm có dương. Giống như trong một người đàn bà – tượng âm – có sự mạnh mẽ, kiên cường – tượng dương; còn một người đàn ông – tượng dương – cũng sẽ có những lúc yếu đuối, mềm lòng – tượng âm. Hai thứ đó bổ sung cho nhau, hòa quyện vào nhau, thiên biến vạn hóa, tạo nên vũ trụ màu nhiệm vô cùng. Âm và dương được gọi là lưỡng nghi, âm được biểu trưng bằng vạch đứt, còn dương được biểu trưng bằng vạch liền.

Hình tròn có hai nửa đen trắng – hình tròn Bát Quái – ở nửa đen có một chấm tròn màu trắng, còn nửa trắng lại có chấm tròn màu đen, là biểu thị cho triết lý này. Vốn dĩ trên đời chẳng có gì là cô âm hay cô dương, bởi lẽ, trong âm có dương và trong dương luôn luôn tồn tại hạt mầm âm. Gọi là âm là bởi lẽ phần dương lấn phần âm, gọi là dương là vì phần dương lấn phần âm.

Và khi một trong hai đạt tới điểm cực cũng là lúc suy tàn. Giống như mặt trời, khi lên cao nhất, tức thiên đỉnh, cũng là lúc nó sẽ phải xuống thấp, ngày tàn. Trong ví dụ ấy có nghĩa là khi mặt trời tượng dương đạt cực thịnh cũng là lúc mầm âm trong nó phát triển, chiếm lấy, sự xuống thấp của dương vào buổi chiều cũng là sự lớn dần lên của âm, để tới tối, khi bóng đêm bao trùm tất cả, tức là âm đã chiếm lĩnh. Rồi cứ thế, khi bóng đêm đạt cực thịnh cũng là khi ánh sáng nảy mầm, nắng mặt trời tượng dương sẽ chiếm lĩnh, xua tan bóng đêm. Cứ như vậy, sáng và tối, ngày và đêm, âm và dương xoay vòng không dứt. Bởi lẽ đó mới có Thái cực đồ, cũng chính là hình tròn có hai nửa âm dương.

Vô cực sinh hữu cực, hữu cực là thái cực. Thái cực sinh lưỡng nghi, lưỡng nghi sinh tứ tượng, tứ tượng sinh bát quái, từ bát quái mà biến hóa ra vô cùng. Lưỡng nghi là hai phạm trù âm dương; còn tứ tượng là cách người ta chồng những hào âm dương lên nhau, gồm thiếu dương, thái dương, thiếu âm và thái âm. Tứ tượng là để nói lên luật doanh hư, tiêu trưởng của khí âm dương lúc dày lúc mỏng. Dày là “thái”, mỏng là “thiếu”.

Khi chồng thêm một hào dương hay âm lên tứ tượng sẽ có được bát quái. Bát quái gồm tám quẻ – càn, khảm, chấn, cấn, ly, khôn, đoài. Sắp đặt tám quẻ của bát quái lại có hai cách. Tám quẻ Tiên thiên bát quái của Phục Hy phỏng theo Hà Đồ, tức hình tròn. Hậu thiên bát quái của Văn Vương phỏng theo Lạc Thư, tức hình vuông. Tròn là trời, vuông là đất, tròn tượng trưng cho các thiên thể, hình vuông là nói về cái dụng của nó trên Trái Đất.

Đó là sự màu nhiệm của quy luật vũ trụ, cũng là cái minh triết siêu phàm của các bậc thánh nhân.

Đầu tiên là câu “Âm cực dương sinh”. Sở dĩ âm cực dương sinh, dương cực âm sinh là vì trong âm có dương tiềm phục, trong dương có âm tiềm phục chưa hiện rõ ra. Lại nói, theo luật “phản phục”, là “vật cùng tắc biến, vật cực tắc phản”. Khi âm đến hồi cực thịnh thì mầm dương cũng đang theo đó hiện lên, nghĩa là trong thái âm có cái mầm thiếu dương hiện lên và bắt đầu tăng trưởng, cũng như trong thái dương có mầm thiếu âm hiện lên và bắt đầu tăng trưởng.

Liên hệ với đêm trăng xanh cực thịnh, có thể thấy rằng, trăng xanh là một sự kiện đặc biệt. Bởi lẽ mặt trăng ảnh hưởng tới Trái Đất và thủy triều. 69 năm một lần, theo quỹ đạo của nó, đó là khi khí âm cực thịnh, mặt trăng xanh lúc này mang sức mạnh khủng khiếp của khí âm. Nhưng trong âm có dương và trong dương cũng có âm, âm cực thịnh là lúc mầm dương trong nó bắt đầu chuyển mình, nảy sinh.

Câu thứ hai, “Vô thủy vô chung”. Âm và dương chuyển hóa cho nhau, đạo của đất trời là ở sự chuyển biến, biến động, không ở yên một nơi nào cả, chu lưu khắp, lên xuống không chừng, cứng mềm thay đổi lẫn nhau. Hai khí âm dương không ngừng giao cảm với nhau, hóa sinh vạn vật, vạn vật không ngừng sinh trưởng, cuộc biến hóa như thế mới trở nên vô cùng vô tận. Như sự sinh và sự tử, trong sự sống đã tiềm ẩn cái chết, giữa cái chết cũng nảy mầm sự sống, sinh sinh tử tử, cứ thế thay thế nhau, tạo thành vòng tròn không bao giờ dứt. Giống như Thái cực đồ, hết âm sẽ tới dương, hết dương lại tới âm, vô thủy vô chung, không có khởi đầu cũng như không có kết thúc.

Còn “Lửa địa ngục bùng cháy”, sẽ được hiểu rằng, đêm, trăng tượng âm, khi trăng xanh là khi khí âm đạt tới đỉnh điểm của nó. Âm khí trong ngày trăng xanh mạnh mẽ vô cùng, nó tác động trực tiếp tới muôn loài, dĩ nhiên trong đó có cả loài người. Khí âm gọi thú tính trong con người ta trỗi dậy, đẩy nó phát tác ra bên ngoài. Trong ngày trăng xanh này, mọi người nên ngồi tĩnh tâm, hít thở sâu, đưa suy nghĩ về hơi thở, tránh động niệm, để kìm giữ bản thân không bị lực hút của âm khí làm cho suy chuyển; hãy nhốt chặt con thú trong lòng mình vào tầng sâu nhất, hãy giữ nó thật chặt, nhớ rằng phải giữ nó thật chặt, bằng không, tai họa có thể ập tới với mọi người.

 Loài người có tư duy, nhận thức, lý tính, có thể kìm chế được thú tính trong mình – dĩ nhiên tùy từng người mà khả năng kìm tỏa thú tính khác nhau. Nhưng loài thú thì khác, chúng sống theo bản năng, không có lý trí để làm chủ cảm xúc, vậy nên, vào đêm trăng xanh, khi khí âm cực thịnh, bản năng hung ác của loài thú trỗi dậy khủng khiếp hơn ở loài người rất nhiều. Điện trường mặt trăng tỏa ra có thể khiến con vật trở nên hung hãn, hiếu sát. Đặc biệt là loài sói, vốn là giống loài vô cùng thính nhạy, hãy tưởng tượng tất cả giác quan của chúng như những sợi tơ, còn của người là khúc gỗ thô nặng. Khi một cơn gió thổi qua, khúc gỗ vẫn trơ lì không phản ứng; nhưng còn sợi tơ thì sao? Nó rung lên dữ dội. Những ngày trăng tròn bình thường, loài sói đã phải chịu tác động rất lớn, trong khi con người chỉ bị ảnh hưởng chút ít. Thì huống hồ ngày trăng xanh, khi khí âm đi tới đường cực thịnh trong quỹ đạo của nó, loài sói sẽ phải chịu ảnh hưởng mạnh mẽ như thế nào. Hấp lực của âm khí sẽ thu hút toàn bộ thú tính trong cơ thể loài sói, giống như cách chúng thu hút thủy triều vậy. Loài sói trong kỳ trăng xanh sẽ trở nên vô cùng hung hãn, điên cuồng và hiếu sát.

Sói là loài động vật sống bầy đàn. Chúng không có sức mạnh hùng dũng như hổ hay báo, nhưng bù lại chúng vô cùng khôn ngoan. Chúng sống theo bầy, để khi đi săn sẽ dùng số lượng mà áp đảo, vây hãm, tiêu diệt con mồi. Con sói đầu đàn là một kẻ chỉ huy tài ba, ranh mãnh, đầy mưu mẹo, chiến thuật. Con sói đầu đàn biết cách lựa chọn con mồi, dồn đối phương vào chỗ không cách nào chống đỡ, rồi sẽ bị những con sói khác tấn công, giết chết. Bọn chúng cùng tấn công, cùng chia chiến lợi phẩm.

Nhưng qua thời gian, bất cứ con sói đầu đàn nào cũng sẽ già đi. Chúng nhận được sự kính trọng từ cả đàn. Nhưng cũng cần canh chừng, vì những chàng trai trẻ, khỏe mạnh có nguy cơ tiếm quyền bất cứ lúc nào. Và trong đàn người sói, điều đó cũng diễn ra. Chúng cũng phải chịu sự khắc nghiệt của cái vòng sinh tử. Nhưng vòng sinh tử của loài sói khác với loài người. Cứ 69 năm một lần, khi người sói đầu đàn đã già nua, yếu ớt thì kỳ trăng xanh cực thịnh là cơ hội của chúng. Khi khí âm lên tới đỉnh điểm, xung năng ấy tác động trực tiếp tới trái tim già nua, cằn cỗi của người sói đầu đàn. Trái tim người sói đầu đàn là sợi tơ mảnh nhất, thính nhạy nhất, dễ cảm nhận và hấp thụ rung động khí âm từ mặt trăng nhất. Trái tim đang cằn cỗi ấy sẽ hấp thụ toàn bộ âm khí, biến nó thành sức mạnh khủng khiếp, như lửa địa ngục thiêu đốt muôn loài. Trái tim người sói đầu đàn trong kỳ trăng xanh sẽ được hồi sinh, từ âm khí của đất trời. Và rồi, giống như loài rắn lột xác, trái tim ấy cũng lột xác, nó lại có được sức mạnh thống lĩnh như trước. Một cái đầu cơ mưu và trái tim mạnh mẽ, đó chính là thứ lửa địa ngục đáng sợ nhất đối với loài người…

*

Họ không phải chỉ nghe Wang nói; họ thật sự lạc vào thế giới chứa đầy tri thức kỳ ảo. Helena lặng im như nín thở; một lúc rất lâu sau khi Wang dừng lại, cô mới khe khẽ lẩm nhẩm “69 năm một lần…”.

– Tại sao lại là 69 năm một lần? – Helena nhìn Wang, hỏi.

Wang mỉm cười, nụ cười có chút thần bí.

– Hãy nhìn lại Thái cực đồ kia lần nữa đi. Cô thấy không, con số 69 cũng tạo thành hình tròn vô thủy vô chung. Đây là con số bền vững, dù cô xoay thế nào, 69 vẫn là 69. Không chỉ thế, 6 là số âm, 9 là số dương. Con số này có cả âm cả dương. Trong cả hai số này đều có vòng tròn nhỏ, giống như hai chấm âm trong dương và dương trong âm ở Thái cực đồ. Chu kỳ của trăng xanh cũng thế, khi âm khí cực thịnh cũng là lúc dương khí sinh trưởng, chiếm lĩnh, sau trăng xanh, âm khí bắt đầu suy dần, cứ thế, một vòng tròn của khí âm là 69 năm. Cô thấy sự tương đồng của Thái cực đồ và con số 69 rồi chứ?

Helena nhìn vòng tròn có hai nửa trắng đen, gật đầu. Hóa ra là như vậy! Thì ra sức mạnh huyền bí ấy lại phức tạp như thế.

– Hai vị còn câu hỏi gì nữa không?

Wang nhấp thêm một ngụm trà, lúc này, ánh mắt ông ta lại quay về với viên đá thiêng sông Thekla. Ánh nhìn như nâng niu, như vuốt ve trìu mến viên đá bằng tất cả yêu thương, hạnh phúc.

– Tôi muốn hỏi, nếu trái tim người sói đầu đàn trong đêm trăng xanh cực thịnh có được sự hồi sinh mạnh mẽ như vậy, có phải trái tim sói ấy có được những khả năng phi thường? – Helena hỏi.

Wang hơi nhíu mày.

– Truyền thuyết kể rằng, trái tim người sói đêm trăng xanh là vật vô giá.

*

Ngày xưa, có một vị hoàng đế, vì đắm chìm trong tửu sắc, yêu chiều mỹ nhân vô độ mà dẫn tới thân tàn lực kiệt. Lúc đó, thể lực ông ta như nến trước gió.

Ở một khu rừng nọ, có một người tráng sĩ, trẻ tuổi, sức vóc như mãnh hổ; anh ta sống với mẹ già, ngày thường vào rừng đốn củi, cày ruộng, hai mẹ con nương dựa vào nhau mà sống. Vì quá nghèo nên chàng trai đó không thể lấy vợ. Hôm đó, buổi tối, chàng trai ra suối gánh nước về cho mẹ rửa chân thì thấy thôn làng lửa cháy rùng rùng, tiếng gào khóc rất thảm thiết. Chàng trai bỏ ngay gánh nước giữa đường, cầm theo gậy gánh nước, chạy về phía làng. Hóa ra đêm đó là ngày trăng xanh cực thịnh, đàn người sói điên cuồng tấn công. Tất cả thanh niên trai tráng cùng ra sức chống trả, tình hình hết sức nguy ngập. Nhìn thấy người sói đang xông về phía nhà mình, chàng bèn lao tới như một mũi tên. Sức vóc dũng mãnh đối đầu người sói. Quần thảo tới gần sáng, trong cảnh khói lửa điêu tàn, những người còn sống sót tìm đến với nhau, thì thấy chàng thanh niên nằm bên cạnh xác người sói – người sói đã chết, còn chàng trai thì mệt lử. Một vị trưởng lão thấy cảnh ấy, nghĩ tới truyền thuyết về sức mạnh trái tim người sói, liền bảo mọi người, đưa xác người sói đầu đàn dâng vua.

Vị vua đang nằm liệt giường chờ thần chết tới gõ cửa thì có tin báo những người dân nghèo khổ kia cầu kiến, xin dâng xác người sói trong đêm trăng xanh. Các thầy thuốc trong cung đã rạch lồng ngực, lấy trái tim người sói – lúc này vẫn còn hơi ấm – chế thành thuốc dâng lên vua. Thần kỳ thay, vị hoàng đế được cứu, không chỉ thế, còn khỏe mạnh hơn xưa. Vị vua hết sức vui mừng. Trong thời gian nhìn thấy sự sống từ từ rời bỏ mình, ông ta cũng hiểu ra quãng đời lầm lạc trước đây của bản thân. Khi có lại sức khỏe, vị vua liền ban thưởng cho toàn bộ dân làng. Từ đó, ông ta cũng quan tâm tới triều chính, chăm lo cho nhân dân. Vì vậy, có lẽ đúng như cô nói, trái tim người sói đêm trăng xanh có sức mạnh vô cùng phi thường.

*

Chàng trai mặc áo xanh đi vào phòng khiến Helena thêm lần nữa trở về được với thực tại, sau cách kể chuyện kỳ lạ của Wang. Chàng trai mang nước nóng, pha một ấm trà khác, rót trà cho ba người rồi lui ra. Ba người ngồi bên ấm trà tỏa khói, giữa hương trầm hư ảo.

– Cảm ơn hai vị đã tới đây, lại mang cho tôi lễ vật quý giá thế này.

Wang chạm tay vào viên đá, vuốt nhè nhẹ. Ares nhìn sang phía Helena, ý hỏi cô còn cần gì nữa không.

– Có một chuyện này, không liên quan tới trăng xanh, tôi muốn biết tại sao ở đây hoa đào lại nở vào mùa thu?

Helena không hiểu khu đất này có gì bí ẩn, từ cách cây cối mọc trong vườn cho đến bức tường “vô hình” kia. Hơn nữa, cô cũng muốn biết người đàn ông này là ai, những lời ông ta nói với cô hôm nay có đáng tin hay không, liệu Jade có thể được cứu nhờ trái tim người sói đầu đàn đêm trăng xanh hay không!

Wang mỉm cười, vẫn nụ cười có chút bí ẩn đó.

– Hoa đào thanh khiết nở vào mùa xuân, ở nơi đây, quanh năm là mùa xuân. Vùng đất của tôi được bảo vệ khỏi sự tác động của con người cũng như thời tiết, ở đây luôn thanh khiết, luôn là mùa xuân.

– Ông đã yểm bùa lên vùng đất này? – Helena nhíu mày, không hiểu.

– Có thể hiểu như vậy. – Wang lại mỉm cười. – Tôi cần một nơi như nơi đây để có thể tĩnh tâm tu luyện, hấp thu tinh túy đất trời, vũ trụ. Và cô biết đó, món tặng vật của cô, viên đá thiêng này sẽ giúp tôi rất nhiều. Một lần nữa cảm ơn cô vì món quà.

Dù vẫn chưa hoàn toàn tin tưởng, nhưng Helena vẫn quyết định phải hỏi thẳng người đàn ông này về tác dụng của trái tim người sói đối với độc bạch quỷ xương.

– Bạn của tôi đang bị trúng độc bạch quỷ xương, tôi cần cứu cậu ấy.

– Hóa ra là vậy. Không phải vì bản thân? Cô quả là người nghĩa khí.

– Tôi muốn biết có thực trái tim người sói sẽ cứu được cậu ấy chứ?

Wang khẽ lắc đầu.

– Thật xin lỗi, tôi không phải thầy thuốc! – Wang khe khẽ lắc đầu. – Hiểu biết về độc dược của tôi không nhiều, không thể cho cô đáp án chính xác. Nhưng như tôi đã nói bên trên, đêm trăng xanh cực thịnh là khi khí âm đạt tới đỉnh điểm của nó, sức mạnh ấy vô cùng ghê gớm. Chúng ta hãy hy vọng sức mạnh của khí âm cực thịnh cũng có tác dụng với bạn cô.

Helena gật đầu. Đúng như Wang nói, chỉ cần còn một tia hy vọng thì không thể bỏ cuộc. Cô nhất định phải thử.

Họ cúi đầu chào nhau rồi Helena và Ares cùng đứng dậy ra về. Wang đi theo tiễn họ. Cả ba đi qua con đường rải sỏi trắng khi nãy; những cánh hoa đào vẫn tung bay trong gió như thể vô tận – như thể mỗi ngày những bông hoa nở ra, theo gió nương mình rơi xuống gốc, rồi ngày hôm sau lại tái sinh. Helena chợt nhận ra, vòng tròn âm dương sinh tử mà Wang vừa nói tới chính là đây. Nở rồi tàn, tàn lại nở, cứ như vậy tới vô cùng …

Họ ra tới cánh cổng bằng đá cẩm thạch trắng, Wang cung kính cúi đầu chào tạm biệt, không quên nói rằng, bất cứ lúc nào có việc cần, hai người họ có thể tới tìm, bởi món tặng vật họ mang tới có ý nghĩa vô cùng lớn trong cuộc đời ông ta.

Hai người rời đi; Helena còn ngoái đầu nhìn lại, dòng suối giả vẫn róc rách chảy, bức tượng nhỏ xíu đặt nơi tảng đá như đang mỉm cười với cô.

– Chúng ta nên làm gì tiếp theo đây? – Helena hỏi Ares.

– Cô lấy được trái tim người sói đầu đàn đêm trăng xanh chứ?

Helena nghĩ tới khuôn mặt đang tái xạm dần đi và những móng tay tím ngắt của Jade.

– Vào đêm trăng xanh, người sói rất hung ác đúng không? – Helena ngẫm nghĩ một chút, như ước lượng tương quan lực lượng giữa cô và người sói. – Nhưng tôi sẽ lấy được, bằng bất cứ giá nào. Đó là hy vọng cuối cùng của chúng tôi mà.

Ánh mắt Helena rực sáng, giọng nói đầy kiên định, bàn tay nắm chặt. Ares cũng gật gù, đôi mắt đen sâu thẳm không biểu lộ điều gì.

– Còn sáu ngày nữa là tới kỳ trăng xanh, tình hình của Jade từ giờ tới lúc đó sẽ thế nào?

Ares không trả lời ngay, đăm chiêu.

– Tính mạng của Jade, tôi đảm bảo sẽ giữ cho cô tới lúc đó. Nhưng tôi cũng muốn nói trước, những cơn đau của cậu ấy sẽ ngày càng gia tăng.

Ares khẽ thở dài. Helena im lặng. Họ sóng bước trên con đường nhỏ, hai bên là rừng thông đang xôn xao trong gió. Đã gần trưa, ánh nắng chan hòa tỏa xuống mọi vật. Một con sóc chạy vụt qua chân khiến Helena giật nảy mình, nhanh chóng rút kiếm. Nhưng khi nhìn rõ con vật bé nhỏ kia, cô bật cười, tra kiếm vào bao da cá sấu đeo trên lưng.

– Tôi vừa nhớ tới một người, ông ta tên là Usha, một người bạn cũ của tôi, một bậc thầy độc dược.

– Bậc thầy độc dược? Ông ta biết cách giải độc đúng không?

– Có thể nói, ông ta dành gần như toàn bộ cuộc đời mình nghiên cứu về các loại độc, chắc chắn ông ta sẽ có cách kìm hãm bạch quỷ xương. Như tôi đã nói, bạch quỷ xương không có thuốc giải, nhưng với một bậc thầy độc dược như Usha, bằng vốn kiến thức của ông ta, tôi tin Usha sẽ có cách kìm chế loại độc này.

– Ông ta giờ ở đâu?

– Ông ta sống cùng gia đình ở cách đây không xa đâu. Tôi sẽ viết thư mời ông ta tới.

– Tôi sẽ tới đó mời ông ta.

– Không cần. Hãy nhớ việc quan trọng nhất cô cần làm là đi tìm và lấy được trái tim người sói vào đêm trăng xanh. Tôi đã hứa với cô sẽ kìm hãm độc tố cho Jade thì tôi sẽ làm.

– Vậy tôi sẽ phái Dực Long mang thư của ông tới tìm Usha và đưa Usha tới chỗ ông.

– Dực Long? – Ares tỏ vẻ ngạc nhiên, không hiểu.

– Là thú cưỡi của tôi. Nó có khả năng bay rất nhanh.

– Vậy thì tốt quá.

Vừa nói chuyện vừa bước đi, chẳng mấy chốc họ đã về tới nhà Ares. Ares vội vào phòng viết thư. Còn Helena qua thăm Jade; cậu vẫn đang hôn mê.

Helena bước ra sân, huýt một tiếng sáo. Lát sau, con vật to lớn với hai cánh rực sáng như lửa bay vút tới; nó lượn quanh phía trên căn nhà mấy vòng rồi đáp xuống khoảnh sân nhỏ, nơi Helena đang đứng. Con vật thu cánh, chẳng may va phải một giàn thuốc đang phơi của Ares, thuốc đổ tung tóe. Vừa lúc đó, Liam bước ra, khuôn mặt thoắt tái xanh. Anh chàng cuống cuồng chạy tới, dựng giàn phơi lên.

Ares tay cầm phong thư bước ra. Bỗng mặt ông ta đanh lại, mắt quắc lên giận dữ.

– Liam, tại sao lại như thế, hả?

Helena quay lại nhìn Ares, lần đầu tiên cô thấy người đàn ông luôn điềm tĩnh, tự chủ này lại nổi giận tới vậy.

– Xin lỗi. Là tại Dực Long, nó vô ý làm đổ thuốc của ông. – Helena xuống giọng xin lỗi Ares.

Ông ta kìm cơn giận lại. Liam cuống cuồng nhặt lại đám rễ, thân cây thuốc rơi dưới sân. Ares hít sâu một hơi, lấy lại sự tự chủ ngày thường. Ông ta đưa phong thư về phía Helena.

– Hãy mang phong thư này tới làng Masa. Từ đây đi về phía đông, khoảng nửa ngày đường, ngay cạnh cánh đồng hoa tulip đỏ là một ngôi làng nhỏ. Có một ngôi nhà với những bức tường và mái ngói đều màu đen, đó chính là nhà của Usha. Hãy đưa bức thư này cho ông ấy.

Helena viết thêm mấy dòng nhắn Usha nếu đồng ý tới, hãy lên lưng Dực Long, nó sẽ đưa ông tới nhà Ares nhanh nhất. Cô bỏ bức thư và tờ giấy mình viết cho Usha vào một miếng da, gói lại cẩn thận. Sau đó, cô nhét vào miệng Dực Long, cẩn thận dặn dò điểm đến cũng như những việc nó cần phải làm.

Helena nhìn theo Dực Long tung đôi cánh sáng rực như lửa bay lên bầu trời xanh biếc. Jade à! Cậu sẽ khỏe lại, nhất định thế!

DANH SÁCH CHƯƠNG CHƯƠNG 5 >>>

 

 

 

 

 

Rating: 5.0/5. From 2 votes.
Please wait...