BÊN KIA GIẤC MƠ | CHƯƠNG VI : MỘT GIAI ĐIỆU THÂN THUỘC

Rating: 5.0/5. From 1 vote.
Please wait...

Khi cả hai trở về căn nhà gỗ thì trời đã xâm xẩm tối. Thấy vậy, June giơ cọ vẽ phác thảo vài đường nét. Những cột đèn lần lượt mọc lên ở hai bên đường, tỏa thứ ánh sáng vàng dịu, ấm áp. Không khí dễ chịu hơn khi đêm buông xuống vùng đất. Gavin nói với June, cảnh tượng này làm cậu nhớ tới những ngày tháng Chín ở thị trấn Shadowfield – nơi cả hai đã lớn lên.

Thời điểm đó, người dân trong vùng nông trại ngoại ô sẽ bắt đầu thu hoạch táo. Sau khi sơ chế, chúng được phân phối tới các khu chợ đầu mối, siêu thị, cửa hàng nhỏ hay những xí nghiệp sản xuất rượu và nước ép trái cây. Vì bố Gavin làm quản lý nhân công cho một xí nghiệp sản xuất rượu táo đặc trưng của vùng nên cậu biết rất rõ. Để tự thưởng cho thành quả lao động của mình sau mùa vụ vất vả, họ thường tụ tập ở những điểm vui chơi hiếm hoi của thị trấn như quán cà phê, quán bar nhỏ, cửa hàng ăn… cùng nhau thưởng thức thứ rượu hoa quả trứ danh của vùng viễn Tây hoang dã, ăn món truyền thống và nhảy múa bên giai điệu vui tươi, phóng khoáng. Người lớn thích những hoạt động kiểu đó, còn đám trẻ nhỏ thường mơ tới những thành phố náo nhiệt và hoa lệ hơn. Ngay bản thân Gavin, nếu còn sống thì thể nào cậu cũng nộp đơn vào một trường đại học ở Los Angeles hay Columbus.

Bên kia giấc mơ

Hai đứa bước lên bậc tam cấp dẫn vào nhà. Màn đêm yên tĩnh xóa bỏ phiền muộn trong lòng. June cảm thấy thoải mái, nhưng nó biết có điều gì đó vẫn còn vướng bận và chưa được giải tỏa ở Gavin. Nó nhìn thấy trong ánh mắt của cậu ấy.

“Chuyện ban nãy vẫn ám ảnh cậu à, Gavin?” – June quay sang hỏi Gavin. Tiện tay, nó đẩy cánh cửa bước vào nhà. Không gian vẫn tối đen như hũ nút.

“Không! Chỉ là…” – Gavin bối rối trả lời. – “Mình cảm thấy hơi căng thẳng chút thôi.”

“Mình sẽ giúp cậu!” – June đáp.

“Bằng cách nào?” – Gavin hỏi lại, không giấu khỏi ngạc nhiên.

“Bí mật. Cậu hãy chờ xem!” – June nói, tỏ vẻ bí hiểm.

Nó cười. Bằng động tác gần như thuần thục, nó giơ cọ vẽ lần nữa, thắp sáng căn phòng bằng những bóng đèn tròn lơ lửng, tỏa ánh sáng xanh lơ trông rất bắt mắt.

June lặng lẽ ngồi xuống bên cạnh Gavin trên chiếc ghế bành êm ái đặt giữa nhà. Phía bên dưới chân họ là một tấm thảm dày đặc biệt với họa tiết hình lá phong đỏ đơn giản. Nó nhớ trong căn nhà mới của Jess ở Dallas, mẹ đã từng sử dụng loại thảm này.

“Cậu có muốn nghe gì đó không Gavin?” – June lên tiếng đề nghị.

June muốn khuấy động không gian yên tĩnh, nhằm xua tan những dư âm xấu còn sót lại. Một phần như để khẳng định thêm lần nữa rằng, bản thân nó hoàn toàn điều khiển được thế giới này.

 “Đồng ý.” – Gavin cười nói, trong khi hai tay cậu vẫn khư khư ôm lấy chiếc ba lô của mình, như thể sợ ai sẽ lấy mất.

 “Thư giãn đi, Gavin!” – June cười, hơi ngả lưng về chiếc ghế bành êm ái, vẻ thư giãn.

Rồi June nhắm mắt. Nó đang cố gắng tưởng tượng ra một chiếc máy nghe nhạc mp3 có loa ngoài đời đầu mà bố đã tặng nó vào sinh nhật mười một tuổi. “Cái máy ấy nếu còn giữ lại thì giờ cũng được xếp hạng ‘đồ cổ’ trên eBay rồi ấy chứ!”, June thầm nghĩ. Trên máy, bố Jared đã lưu sẵn một vài ca khúc nhạc country thịnh hành nhiều thập niên trước đây, của Johnny Cash, Dolly Parton hay Hank Williams. Bố bảo nó, đó thực sự là những kỷ niệm đẹp giữa ông và mẹ Jess. Họ đã nghe đi nghe lại những ca sĩ đó nhiều lần. Bố Jared chỉ nói vậy mà không kể thêm bất cứ điều gì nữa, cho tới giờ, June đôi khi vẫn không khỏi tò mò.

June mở mắt, vài tia sáng xuất hiện trên lòng bàn tay nhỏ nhắn của nó. Chúng bắt đầu chuyển động, xoay tròn như nhảy múa. Rồi sau đó, biến thành chiếc máy mp3 quen thuộc một thời. Gavin tỏ ra vô cùng thích thú trước cảnh tượng ấy, còn June đắc chí thực sự. Nó tự hào với thành quả của chính mình.

 “Cậu thích nghe gì nào, Gavin? Mình sẽ là DJ của buổi tối hôm nay!” – June tuyên bố.

 “Storyteller của Carrie Underwood chẳng hạn.” – Gavin gợi ý, cái tên ấy hiện lên đầu tiên trong đầu cậu.

 “Album gần đây của Carrie Underwood.” – June gật gù.

 “Mình nhớ album đó được phát đi phát lại trên radio hay trong siêu thị hàng chục lần mỗi ngày vào thời điểm phát hành.” – Gavin nói.

June cười và không nói gì thêm. Trên màn hình chiếc máy nghe nhạc đã hiện hình ảnh nữ ca sĩ Carrie Underwood xinh đẹp. Dòng chữ cách điệu chạy ngang ghi “Storyteller.”

June nhấn nút khởi động. Những giai điệu du dương của bài hát mở đầu Clock Don’t Stop vang lên, chẳng mấy chốc chiếm trọn căn nhà gỗ. Nó thả lỏng người thư giãn, mắt nhắm lại như để cảm nhận bài hát. Một giai điệu rất đỗi thân thuộc! Bỗng chốc, June thấy mình như đang trôi trên dòng sông ánh sáng. Mọi thứ xung quanh thật sự dễ chịu biết mấy, nó thầm nghĩ.

*

Khi ấy, nó không còn ở trong căn phòng cùng với Gavin nữa, mà đang đi trên đường. Chính xác hơn là trên chiếc Fiat yêu thích của mẹ – chiếc xe đã gắn bó từ khi bà còn là sinh viên năm ba của trường nghệ thuật. Bà từng lái chiếc xe ấy vòng quanh các thị trấn nhỏ bé của Oklahoma và Arkansas.

Mẹ đang cầm lái, bố ngồi bên cạnh, còn nó ngồi băng ghế phía sau. Cạnh nó là một cây guitar cũ – vật bất ly thân của mẹ. Ngày hôm đó, mẹ cũng đội một chiếc mũ cao bồi giống bố. Hai chiếc mũ như đánh dấu kỷ niệm ngày đầu tiên họ quen biết nhau.

Chiếc xe đang lao vút ra phía ngoại ô. Nơi họ tới cách trung tâm thị trấn Shadowfield hơn hai dặm về hướng đông nam. Ở đó tập trung một số hồ nước nhỏ gần rừng cây đoạn và thủy tùng, nước hồ thường đóng băng vào mùa đông. Giữa tháng Tám hằng năm, bố mẹ thường dẫn June tới khu vực đó cắm trại và câu cá. Họ chủ ý chọn khu vực hẻo lánh để có không gian riêng, yên tĩnh.

Bố Jared thường tỏ ra khó chịu khi lái xe trong im lặng. Ông có thói quen nghe bất kỳ gì từ hệ thống radio trên xe – bản tin thời sự địa phương, một quảng cáo mẫu xe kéo đời mới hay một giai điệu vui nhộn. Ông cho rằng như vậy thì sẽ “tập trung” hơn. Nhiều khi June thắc mắc, chẳng biết “sự tập trung” mà bố Jared thường nhắc tới ở đây nghĩa là tập trung vào chuyện lái xe hay suy nghĩ về công việc ở trạng trại như cách chăm sóc lũ ngựa non mới đẻ. Chỉ biết rằng, khi sống cùng bố một thời gian dài, nó đã nhiễm thói quen này.

Ngay sau khi chiếc xe băng qua cây cầu cổ còn sót lại của thị trấn, Jared liền đề nghị họ nghe thứ gì đó. Mẹ mở radio lên, tay vặn nút dò chỉnh tần số. Tiếng rè rè ban đầu dần được thay thế bằng một giọng ca êm ái, đậm chất tự sự. Lắng nghe một lúc thì June nhận ra chất giọng đặc trưng của nữ ca sĩ hát nhạc country – Carrie Underwood với ca khúc Clock Don’t Stop – cũng chính giai điệu ấy giờ đây đang vang khắp căn phòng chỉ có nó và Gavin ngồi.

Chiếc xe của họ băng qua những cánh đồng trồng lúa mì, tiến sát tới bìa rừng, rồi chầm chậm dừng lại. Bố ra hiệu cho nó ra khỏi xe, trong khi ông khệ nệ chuyển đồ xuống. Họ quyết định cắm trại ở một bãi cỏ rộng gần hồ. Cỏ không còn xanh mướt như khi vào hạ, đôi chỗ đã bắt đầu chuyển sang màu héo úa. Bố Jared hướng dẫn nó cách dựng trại, trong khi mẹ Jess đang chuẩn bị một vài đồ ăn từ chiếc hộp của bà.

Sau đó hai bố con mang đồ nghề ra hồ câu cá. Thi thoảng, nó và bố cười lớn khi câu được một con cá tầm. Mẹ chen ngang bằng câu hỏi, có chuyện gì mà khiến hai bố con vui đến thế. Một con cá đã nhảy thẳng lên bàn ăn của nhà ta rồi đây! Bố Jared sẽ đáp lại bằng một câu pha trò sến sẩm như thế.

Rồi June đề nghị mẹ hát. Bên ánh lửa bập bùng của chiều tối muộn, mẹ cầm chiếc guitar, mắt nhắm, môi mấp máy thành lời, phiêu theo những giai điệu ngọt ngào của Elvis Presley. Hình ảnh đó in hằn trong tâm trí nó, mãi không quên.

Lúc này tại căn phòng nhỏ, chiếc máy chuyển sang bài The Girl You Think I Am khiến June dứt khỏi dòng hồi tưởng. Không còn dòng sông ánh sáng nào. Nó đột ngột trở về. Bên cạnh Gavin vẫn đang chìm sâu vào trong những giai điệu.

Hình ảnh của buổi dã ngoại lùi dần vào bóng đêm. Mọi thứ đang trở nên mờ nhòa. Ánh lửa trại yếu ớt, rồi tắt hẳn. Giọng hát của mẹ hòa lẫn vào trong tiếng gió rít, chẳng thể nghe được gì.

***

Jess và Jared đang ngồi ngoài hành lang bệnh viện. Không ai nói với nhau câu nào sau cuộc cãi vã. Họ đều nhận ra chuyện cãi cọ giờ đây chẳng mang lại kết quả gì, nên cuối cùng đều chọn cách im lặng. Như vậy sẽ tốt hơn!

Ánh sáng nhờ nhờ lan tỏa khắp hành lang. Jess đứng ngồi không yên, bà nhìn đồng hồ đeo tay, đã khoảng năm giờ rưỡi chiều. Trời mùa này tối nhanh hơn thường lệ. Jess vẫn chưa ăn uống gì tử tế, ngoài mấy lát bánh mì phết bơ ăn kèm với nho khô được Jared mang tới đầu giờ chiều. Jared muốn nhận trông June để bà có thể xuống phố và ăn chút gì cho đàng hoàng. Nhưng Jess thiết nghĩ, chẳng còn bụng dạ gì để ăn. Tâm trí bà chỉ để ý tới dáng hình nhỏ bé, yếu đuối của cô con gái đang nằm im trên chiếc giường trắng toát. Chiếm trọn không gian là mùi thuốc khử trùng – thứ mùi khó chịu, đặc trưng của bất kỳ bệnh viện nào trên thế giới này. June vẫn chưa có dấu hiệu tỉnh lại, từ sau khi trải qua ca đại phẫu kéo dài hơn sáu tiếng đồng hồ. Tính đến nay đã gần một tuần trời trôi qua.

Tuy qua khỏi cơn nguy kịch nhưng June vẫn đang hôn mê sâu, chưa biết bao giờ mới hoàn toàn bình phục. Cả Jared và Jess đều cảm thấy lo lắng trước chuyện này. Chiều nay, Jess đã bày tỏ lo ngại về tình hình của con gái với vị bác sĩ trực tiếp thực hiện ca phẫu thuật. Tuy nhiên những gì ông làm chỉ là vài lời an ủi nhằm trấn an bà và Jared. Hơn hết, những gì ông ta nói với hai người, chỉ gói gọn đơn thuần trong hai từ “chờ đợi”. Trong quá trình đó, các bác sĩ sẽ tiếp tục lấy máu, xét nghiệm, chờ kết quả, chẩn đoán lại, rồi cuối cùng mới đưa đến những giải pháp cụ thể hơn nhằm giải quyết tình hình. Tình trạng hôn mê thực vật có thể kéo dài vài tuần, thậm chí là vài tháng nếu như bệnh nhân chưa thực sự có dấu hiệu hồi tỉnh. Jess đã đọc đâu đó trên một nguyệt san về sức khỏe cách đây không lâu.

Jess bực bội khi nghe tới quy trình chẩn đoán nào đó. Bà càng nổi xung lên với hai từ “chờ đợi” đáng ghét, hay niềm “hy vọng” xa vời. Bà sẵn sàng chuyển viện tuyến trên và tìm bác sĩ giỏi nếu cần thiết. Jared khuyên bà nên lấy lại sự bình tĩnh cần thiết. Bà thực hiện động tác hít thở sâu nhiều lần trong nhà vệ sinh, vốc từng vốc nước lạnh lên mặt mình nhiều lần, cho thực sự tỉnh táo. Bởi lẽ, Jess biết rằng quãng đường phía trước vẫn còn rất dài. Bà phải luôn túc trực bên cạnh con gái mình.

Nữ y tá truyền đạt lại dặn dò của bác sĩ yêu cầu về quan sát tình hình, nếu có gì bất ổn thì cần phải thông báo ngay. Bà cố gắng lắng nghe nhưng rốt cuộc mọi thứ vẫn chẳng giúp ích được gì.

Jared muốn về nhà một lát và sẽ mang theo một chút đồ ăn nhanh, trà túi lọc hay cà phê pha sẵn khi quay lại. Lại mấy chuyện chết tiệt trong cái trang trại ấy với lũ gà, lợn và ngựa. Jess bâng quơ nghĩ ngợi khi bóng Jared đi dọc hành lang tối, rẽ trái rồi biến mất. Hơn hết, Jess cần sự im lặng, một mình bên cạnh con.

Khi Jess trở lại phòng bệnh, nữ y tá vừa thay dịch truyền và kiểm tra máy đo nhịp tim. Đã hơn bảy giờ tối, căn phòng được thắp thứ ánh sáng vàng yếu, dễ chịu. Từ đây nếu như vào ban ngày, người ta có thể nhìn thấy một phần nhỏ của trung tâm thị trấn, phóng tầm mắt ra xa thì chiêm ngưỡng trọn vùng đất phía nam – nơi thường được dùng làm nông trại trồng trọt hay chăn nuôi gia súc. Người dân nào sinh ra ở thị trấn mà chẳng sở hữu vài héc ta đất. Thời điểm cuối tháng Tám, đầu tháng Chín, người dân ở đây đã thu hoạch phần lớn nông sản trong trang trại. Jared cũng có một trang trại khá rộng lớn ở khu vực đó, được thừa hưởng từ bố của mình, khi ông qua đời vì bạo bệnh năm Jared mười lăm, mười sáu tuổi gì đó. Jess không nhớ rõ lắm.

Jess lại nhìn từ căn phòng bệnh xuống phía trung tâm thị trấn. Những ánh đèn lan tỏa trên con phố chật hẹp, đổ thành vệt loang loáng trên những vũng nước mà cơn mưa ban chiều để lại. Phía bên kia đường là một quán bar nhỏ với cái tên nghe khá mỹ miều – Blue Night. Ban ngày quán thường đóng cửa và tới khuya lại mở cửa, có khi mở thâu đêm. Gã chủ quán là một tay guitar cừ khôi, tôn thờ phong cách hippie. Tóc dài xõa vai, để râu rậm, mặc quần ống loe, áo cánh có họa tiết paisley, pop art lòe loẹt. Gã chuyên hát nhạc phản chiến của John Lenon, George Carlin hay Bod Dylan. Sau này, gã trở thành bạn và là người chứng giám cho lễ kết hôn của họ.

Chính tại nơi đó, dưới ánh đèn neon huyền ảo hòa quyện với những tình khúc ngọt ngào, ủy mị của Elvis Presley, bà đã nhận lời cầu hôn của Jared…

*

 “Đã hơn tám giờ tối, bên trong Blue Night, tay Hippie đang lọ mọ sửa lại những chiếc bóng đèn neon. Phía bên quầy, Jess đang ngồi nhấm nháp một ly cocktail Caipirrinha trứ danh của Brazil. Những ánh mắt chẳng chút kiêng dè đổ về phía cô, bởi, không thể phủ nhận, Jess là cô gái nổi bật nhất trong quán. Lọn tóc nâu mượt buông xõa hờ hững trên bờ vai mảnh để trần, khéo léo khoe làn da hơi rám nắng. Dù chỉ vận bộ đồ đơn giản, nét tươi trẻ và phóng khoáng của tuổi đôi mươi ở cô vẫn đủ gây xao xuyến và trở thành chủ đề bàn tán. Nhưng đêm nay, Jess không lấy đó làm phiền, cô nhận thấy Shadowfield bớt tẻ nhạt hơn vào khoảng thời gian mùa hè, và cũng bởi khi ấy, cô đang ngồi đợi Jared.

 Một lát sau Jared tới. Anh bước vào, vẫn phong cách cowboy bụi bặm nhưng nay lại có phần chỉn chu hơn. Áo da sáng bóng, bên trong áo sơ mi trắng được là phẳng phiu. Anh không đội chiếc mũ cao bồi đặc trưng của mình. Mái tóc bóng lộn hất ngược về phía sau, gọn ghẽ khác thường. Những đôi mắt nhìn chòng chọc thô lỗ khi nãy lập tức cụp xuống khi nhìn thấy Jared “Cannonball” Walker.

Nay anh chàng lại học đòi cách làm người lớn cơ đấy! Jess cười nhẹ trước sự thay đổi này, rồi trở lại với ly cocktail đã vơi nửa của mình.

Nhạc bỗng thay đổi, giai điệu sôi động của The Eagles biến mất, thay vào đó là bài Can’t Help Falling In Love của Elvis Presley. Jess nhướng mày về phía gã hippie như muốn hỏi nguyên do tại sao. Đáp lại, gã chỉ mỉm cười ẩn ý.

“Jess.” – Jared lên tiếng.

Lúc này, Jared đang ngồi rất gần Jess. Jess ngước lên, dù đã ngà ngà với ly cocktail thứ tư nhưng phần nào vẫn giữ được sự tỉnh táo.

“Sao vậy, Jared?” – Jess cất tiếng, nghiêng đầu nhìn Jared.

Jared đột nhiên trở nên bối rối hết sức, vẻ cứng cỏi tự tin thường ngày của tay đua công thức I khét tiếng giờ thay bằng sự rụt rè của cậu trai mới lớn. Thật lạ, Jess thắc mắc.

Jared lập cập thò tay vào túi áo khoác để lấy ra chiếc hộp nhỏ bọc nhung đen.

“Lấy anh nhé!” – Ba từ này thật sự rất khó để nói ra, nhưng cuối cùng thì anh chàng cũng nói được.

Dưới ánh sáng mờ mờ của Blue Night, chiếc nhẫn trông đặc biệt rực rỡ. Với viền nhẫn mảnh và viên kim cương nhỏ cắt hình tròn, nó mang vẻ đẹp cổ điển và lãng mạn mà bất cứ cô gái nào cũng khó có thể chối từ.

Mặt Jared ngượng chín, anh chờ đợi câu trả lời từ phía Jess.

Elvis Presley vẫn đang phiêu diêu với đoạn điệp khúc. Tiếng cười nói râm ran thoắt im bặt, ai nấy đều đang chờ đợi. Jess cảm thấy bản thân mình đang trở nên quá đỗi quan trọng trong hoàn cảnh này. Ban đầu Jess nghĩ rằng Jared đang đùa, chẳng lạ gì khi một kẻ phiêu lưu như anh buông lời tán tỉnh với bất cứ cô gái nào anh thích. Nhưng lần này thì khác, sự rụt rè của Jared khiến cô tin rằng anh thật sự chân thành.

Mọi con mắt một lần nữa đổ dồn vào Jess. Cô chợt nhận ra mình đã yên lặng khá lâu.

“Em đồng ý!” – Jess nói.

Khi ấy, Jess không thể nghe được gì ngoài tiếng hò hét tán thưởng của những người xung quanh, gã Hippie hào hứng lôi chiếc guitar của mình ra và nghêu ngao hát. Trái tim Jess đập liên hồi khi Jared đặt lên môi cô một nụ hôn say đắm.

*

Jess lắc đầu, cố gắng không để những dư ảnh từ ký ức khiến tâm trí rối loạn, không suy nghĩ thông suốt. Rồi bà tiến gần lại giường bệnh, ngồi xuống, nắm hờ đôi bàn tay của June. Gương mặt con bé thật bình thản. Không hề giống như một người vừa trải qua cuộc đại phẫu giành giật lại sự sống, càng không giống một người đang chìm sâu vào hôn mê thực vật và tạm mất đi phần ý thức. Trông con gái bà như đang ngủ mà thôi, chỉ là không thể đánh thức.

Bất giác, một giai điệu thân quen vang lên trong đầu bà, như gợn từ sâu thẳm tiềm thức. Jess chợt cất lên thành tiếng, vừa hát bà vừa lấy tay vuốt ve mái tóc của con gái.

Red dress, spilled wine

Caught in a stupid fight

He’s wrong, she’s right

(No kiss goodnight)

Ring ring, telephone

Act like I’m not home

Can’t hear the tears cry

The clock don’t stop ticking away

It’s ticking away…

Lời bài hát văng vẳng trong đầu Jess. “Kim đồng hồ vẫn cứ quay, cứ quay”… Dù ta vui buồn ra sao, đau khổ hay hạnh phúc thế nào, thời gian chẳng bao giờ chờ đợi ai cả. Phải, bao nhiêu thời gian đã trôi qua…

Jess sinh ra trong một gia đình trung lưu tại thành phố Dallas, thuộc tiểu bang Texas. Bố mẹ đều hành nghề luật sư, cả anh chị cũng nối nghiệp bố mẹ, duy chỉ có Jess quyết định theo đuổi con đường nghệ thuật ca hát.

 Thời gian học đại học, Jess đã quen Jared – một anh chàng đến từ Oklahoma với phong cách đậm chất cao bồi miền Tây, áo khoác da đơn giản, quần jean bụi bặm và chiếc mũ đặc trưng. Cô hoàn toàn bị thu hút bởi tính cách phóng khoáng và tràn đầy năng lượng của Jared.

Jared thực sự đam mê tốc độ, từng một thời nổi danh trong làng đua công thức I khét tiếng của vùng viễn Tây Oklahoma. Jared đã từng có mặt tại lễ hội tốc độ ở Goodwood, tổ chức thường niên vào mùa hè hằng năm ở Anh, để tham gia cuộc thi tài với những tay đua cự phách trên toàn thế giới.

Những năm yêu nhau, Jared và Jess đã rong ruổi khắp vùng viễn Tây trên những chiếc xe “con cưng” của Jared. Họ đã đi dọc xa lộ Route 66 – con đường nổi tiếng nối liền tám tiểu bang của nước Mỹ, chạy ngang qua Illinois, Missouri, Kansas, Oklahoma, California… cuối cùng kết thúc ở Los Angeles. Có những lúc, họ ngẫu hứng băng qua vùng hoang mạc rộng lớn từ Arizona qua Nevada, để tới tận thành phố Las Vegas quyến rũ.

Nhưng do một tai nạn ngoài ý muốn, Jared buộc phải từ giã sự nghiệp của mình, quyết định trở về Shadowfield để tiếp quản trang trại theo di chúc của bố. Jess đã đi theo Jared và họ nhanh chóng kết hôn sau thời gian đó.

Về phần mình, Jared nhanh chóng làm quen với công việc trong trang trại và tỏ ra yêu thích chúng, như việc chăm sóc lũ ngựa và lái xe kéo. Nếu rảnh rỗi lại lôi đống phụ tùng ra, thử nghiệm việc sửa chữa trên những chiếc xe hỏng. Nhưng ít ai biết rằng, đó chỉ là những công việc giúp Jared quên đi quá khứ “hào hùng” của chính mình mà thôi. Jess nhớ lại những ngày cuối cùng ở Shadowfield.

Jess ngồi tần ngần hồi lâu bên cây đàn piano từ sau bữa cơm tối. Bà vẫn chưa nghĩ ra sẽ phải chơi giai điệu nào. Đã lâu không thử chơi, bà sợ rằng đã quên đi nhiều bản nhạc, thậm chí cả kỹ thuật chơi.

 “Mẹ.” – June lên tiếng, phá vỡ bầu không khí im lặng, con bé đã đứng sau Jess được một lúc.

“Con vẫn chưa ngủ sao, June?” – Jess vội xoay người lại. Khi June tiến lại gần, bà nắm lấy hai cánh tay của con bé và chăm chú nhìn. Bà nhận ra dạo này June có vẻ xanh xao hơn, hai quầng thâm dưới đôi mắt tròn to hiện rõ.

“Con không ngủ được. Mẹ có thể ngồi với con một lúc được không?”

Jess đồng ý. Sau đó, bà dắt tay con gái đi vào trong phòng ngủ của nó. Đèn bàn vẫn bật. Trên giường, Jess thấy một vài bức phác thảo vẫn còn dở dang.

“Con vẫn chưa hoàn thành chúng sao?” – Jess thắc mắc.

June lắc đầu và không nói gì. Đoạn, nó leo lên giường. Jess ngồi xuống mé giường, lấy chăn đắp ngang ngực con.

“Mẹ có chuyện gì sao?” – June lên tiếng, như thể con bé đã muốn hỏi từ lâu nhưng chưa có dịp thích hợp.

“Không có gì đâu con.”

Jess phủ nhận nhưng chưa thể làm an lòng June. Ngay cả bây giờ, bà cảm thấy giọng nói mình không thể nào thuyết phục nữa. Jess dường như trốn tránh mọi câu hỏi kiểu như vậy, ngay cả với Jared.

“Dạo gần đây con thấy bố về muộn hơn và hai người dường như không trò chuyện gì mấy?” – June lại hỏi.

“Bố bận chuyện ở nông trại, huống hồ giờ đang vào mùa vụ. Con nên ngủ sớm đi để giữ gìn sức khỏe, mẹ sẽ vặn nhỏ đèn lại.” – Jess lái câu chuyện sang hướng khác, nhưng bà biết không thể giấu được June. Con bé đã mười ba tuổi, nó đủ nhận thức để hiểu mọi chuyện đang diễn ra gần đây.

“Mẹ có thể ra ngoài chơi một giai điệu nào đó không? Biết đâu con sẽ ngủ được!” – Cuối cùng, June đề nghị, như muốn kết thúc sớm câu chuyện. Jess phần nào cũng thấy nhẹ nhõm hơn.

Sau đó bà tắt đèn phòng, không quên hôn lên trán con gái. Bà lặng lẽ đi ra ngoài, khẽ khàng đóng cửa.

Bà ngồi xuống ghế, nhìn đăm đăm vào phím đàn piano đen trắng, rồi bà liếc nhìn đồng hồ treo tường. Đã gần tám giờ tối, Jared vẫn chưa về. Vào mùa vụ ở Shadowfield, công việc chất lên như núi ngốn hầu hết thời gian trong ngày của Jared, từ việc thu hoạch nông sản, quản lý người làm thuê và ti tỉ những thứ khác cần lo. Jess luôn hiểu cho Jared và không tỏ ra phàn nàn về bất cứ chuyện gì. Giờ đây giữa họ dường như có một giao ước vô hình, mà hơn hết là sự tôn trọng ở mỗi người. Ở Jared là công việc, còn ở Jess là niềm đam mê âm nhạc. Không ai đả động vào công việc của ai, nhưng cũng chính điều đó đã tạo nên những vách ngăn giữa họ. Chỉ cần nhìn vào mắt Jared mỗi khi ông ấy trở về nhà với trạng thái rệu rã, mệt mỏi, Jess như hiểu tất cả, nhưng có điều, bà vẫn chọn cách im lặng.

Jess suy nghĩ giây lát rồi lướt nhẹ những ngón tay thon dài trên phím đàn. Những giai điệu không lời cất lên, từ hòa tấu Sông Danube tới Autumn Leaves của Daniel Kajmakoski. Những lúc như thế này, Jess thấy tâm trạng mình trở nên bình an lạ thường, những mối lo toan hiện tại tạm dẹp qua một bên. Jess như trở lại với cuộc sống của cô gái thành thị tuổi hai mươi, cô sinh viên nhiệt huyết của trường Đại học Nghệ thuật Dallas. Một tâm hồn phiêu du, tự do tự tại, mang trong mình hoài bão về những chuyến lưu diễn vòng quanh thế giới, cất lên tiếng nói từ con tim mình qua âm nhạc.

Jess từng nghe vu vơ đâu đó về “mother’s guilt” – cảm giác tội lỗi của những người làm mẹ – cái bóng đen của nỗi sợ rằng “mình không đủ tốt”. Một người vợ – người mẹ có quyền đặt mong muốn của mình lên trên hết không? Jess biết mình chẳng thể nào đủ sức để trả lời câu hỏi ấy. Đôi lúc, khi nhìn lại quãng thời gian dài gắn bó với Shadowfield, từ hồi lấy Jared rồi sinh June cho tới khi con bé đã khôn lớn phần nào, Jess mới thực sự nghĩ tới những gì là của mình, về đam mê đã bị lãng quên một thời gian dài. Jess chỉ muốn sống lại con người của chính mình mà thôi, bà không thể sống đúng nghĩa nếu không có âm nhạc, điệu nhảy của đời mình. Jess yêu gia đình này chứ, rất yêu nữa là đằng khác; nhưng bà vẫn có quyền mơ về con người của nghệ thuật – bản ngã cho bà cái quyền được sống trọn vẹn, thay vì chỉ tồn tại một cách tạm bợ.

Đồng hồ điểm chín giờ, những ngón tay của Jess đã ngừng lại trên phím đàn. Đêm về khuya, thảng hoặc nghe tiếng xe tải đường dài vọng lại từ xa lộ. Jared có lẽ sẽ ngủ lại trang trại cùng những người làm thuê. Nghĩ vậy, Jess lặng lẽ đi về phía phòng ngủ của mình. Tiện tay, bà tắt đèn, cả gian phòng tối đen như mực.

Đó là quãng thời gian thật sự khó khăn đối với Jess, bà đã suy nghĩ rất nhiều. Thậm chí bà đã đặt nửa còn lại của cuộc đời mình lên một bàn cân để đong đếm. Chuyện ly hôn như kết quả tất yếu sau quãng thời gian dài đó, không hẳn là những mâu thuẫn trong cuộc sống với Jared. Họ đã từng có thời gian hạnh phúc, nhưng dường như khi đã sống với nhau một thời gian đủ lâu, Jess bỗng nhận ra rằng, bà đang sống cuộc đời của người khác chứ không phải chính mình. Bà đã từng yêu con người trong quá khứ, yêu những gì là quá khứ của Jared, còn ở hiện tại, bà cần sống với chính mình. Chính vì thế Jess đã đưa ra sự lựa chọn. Bà không còn nuối tiếc về quãng đời và lựa chọn ấy, nhưng lúc này, đứng trước trò đùa nghiệt ngã của số phận, bà không còn dám chắc về bất cứ điều gì.

Đêm vẫn lặng im. Thảng hoặc nghe thấy tiếng đàn chim di cư bay ngang qua bầu trời, hòng tìm được một nơi chốn ấm áp trước khi mùa đông đến.

“Mẹ xin lỗi, June. Mẹ thực sự xin lỗi.” – Jess cất tiếng trong không gian yên ắng, giọng điệu có phần nghẹn lại vì xúc động.

Cảm giác nuối tiếc dâng lên trong lòng Jess. Bà tiếc vì đã không dành nhiều thời gian ở với June. Bà tiếc vì đã không học cách lắng nghe.

“Mẹ không mong sự tha thứ, chỉ mong con mau tỉnh giấc, bởi còn nhiều điều mẹ muốn nói với con, June à!”

Lần này, Jess nghẹn ngào thực sự. Bà bật khóc!

Từ phía cửa chính có tiếng bước chân. Cửa bật mở. Jared lầm lũi đi vào phòng. Jess vội vàng lau nhanh những giọt nước mắt. Bà không muốn Jared chứng kiến cảnh tượng này. Jared dường như không để ý mà đi thẳng tới chiếc bàn, bày những thứ mang từ nhà đến – âu đựng thức ăn nhanh, vài quả táo và sữa trái cây đóng hộp. Một mùi ngai ngái tỏa ra khi Jared mở nắp bình cà phê pha sẵn.

“Em đã nghỉ ngơi chút nào từ chiều chưa?” – Jared hỏi.

Jess mở miệng, định nói gì đó. Rằng, bà chẳng có tâm trạng đâu để nghĩ cho bản thân chăng? Hay rằng, mỗi lần định ngả lưng, bà lo sợ sẽ bỏ lỡ một cử động nào đó, dù rất nhỏ, của con gái? Nhưng rốt cuộc, cơn mệt mỏi rã rời cũng đã xâm chiếm. Jess lắc đầu.

Jared lặng lẽ rót cà phê ra hai chiếc cốc nhựa, một cốc đưa cho Jess. Bà cầm lấy, nói cảm ơn, rồi quay lại phía giường bệnh.

“Chỉ là… thời gian phía trước còn dài. Cả hai chúng ta cần phải…” – Jared hơi ngập ngừng – “… sẵn sàng để đối mặt với mọi trường hợp xấu nhất có thể.”

Jess nắm chặt cốc cà phê trong tay, bà chẳng cảm nhận được chút hơi ấm nào từ đó. Jess không nói gì nữa vì lòng bà nghẹn lại. Bà cũng chẳng để tâm tới Jared. Lúc này ông đã yên vị trên chiếc ghế bành, tiện tay vặn nhỏ đèn phòng lại.

Cả hai người đều im lặng trong căn phòng tranh tối tranh sáng. Bên ngoài kia, cả thị trấn như đang chìm sâu vào giấc ngủ, mà chẳng biết khi nào thì cơn ác mộng tiếp theo sẽ ập tới. Đột ngột. Không điềm báo!

 

 

>>> Bên kia giấc mơ | Chương 7: Những quái nhân kỳ dị

 

 

 

Rating: 5.0/5. From 1 vote.
Please wait...