BÊN KIA GIẤC MƠ | CHƯƠNG XI: CÔ GÁI ÁNH TRĂNG

No votes yet.
Please wait...

Khi Jared quay trở lại thì Jess đã tỉnh ngủ. Bà thấy đầu đau như búa bổ, thân thể mỏi rời. Jared đặt lên trên bàn hai cái bánh humburger cỡ lớn. Một cốc nước ép hoa quả và một cốc cà phê còn nóng, khói lơ lửng bay lên, mùi ngai ngái lan tỏa khắp gian phòng lạnh ngắt. Tháng Mười hai, trời trở lạnh đột ngột. Tuyết đã bắt đầu rơi trên những tuyến phố.

Jared đưa cho bà phần bánh và cốc nước quả. Jess cầm lấy, thầm nói cảm ơn. Rồi bà ăn ngấu nghiến, như thể đã nhịn đói mấy ngày. Jared từ tốn cầm phần bánh còn lại và cốc cà phê, ông đi về cửa sổ, lặng lẽ ăn. Thi thoảng ông đánh ánh mắt về phía Jess như muốn nói điều gì nhưng rồi lại thôi. Ông tiếp tục ăn cho tới khi hết phần bánh của mình, rồi mới quay lại nói:

“Em nên về nhà nghỉ! Đã thức mấy ngày liền rồi. Đêm nay anh sẽ trông coi June.”

Jess bằng lòng, bà không muốn đôi co với Jared nữa. Phần nào đó, thì hai người đã làm hòa. Vả lại bà cũng cần chăm lo cho bản thân, trước những khó khăn mới. Ngày mai, hãy còn dài. Jess thầm nghĩ.

Jared đưa cho bà chìa khóa xe và nhà, nhắc nhỏ bà nên lái xe cẩn thận. Mùa đông, đường trơn trượt, huống chi trời đã sập tối. Jess chẳng nói chẳng rằng, bà cầm lấy chìa khóa, sang bên giường hôn nhẹ lên trán June, vuốt ve mái tóc con vài lần rồi mới đi về.

Jess lái xe ra khỏi khuôn viên bệnh viện, rẽ trái, từ đó cứ hướng thẳng đại lộ B là về tới nông trại của Jared. Lúc đi ngang qua con phố nhỏ dẫn ra đại lộ, vài con mèo nhảy phốc từ thùng rác xuống khiến Jess phanh gấp, tiếng kít vang dài. Lũ mèo hoang chết tiệt, bà rủa thầm rồi mới lái xe tiếp. Ánh đèn đường trải xuống vàng vọt khiến thị trấn nhuốm thêm vẻ u buồn. Ngang qua Blue Night, bà không quên ngó vào trong đó. Gã Hippie ngồi tần ngần bên quầy pha chế đang chăm chú đọc một thứ gì đó. Jess chợt nhớ lại những kỷ niệm, chiếc nhẫn cưới, ly cocktail caipirrinha trứ danh của Brazil hay giai điệu Elvis Presley… nhưng hầu như chẳng rõ rệt chút nào. Giờ mọi thứ chỉ là những dư ảnh rời rạc, dẫu có chắp vá thì cũng chẳng thành một bức tranh hay tấm ảnh hoàn chỉnh. Suy nghĩ vẩn vơ, sau đó Jess nhấn sâu chân ga, phóng vút về phía bóng đêm đang phủ xuống đen đặc.

Bà không muốn những thứ đó gây ảnh hưởng không tốt tới tâm trạng của mình, nhất là vào lúc này. Đầu Jess vẫn choáng váng, thông báo của Bracher như một nhát búa bổ mạnh vào đầu bà. Dư âm còn sót lại của nó vẫn là nỗi đau âm ỉ, vô hình. Cứ mỗi lần nhắm mắt, Jess lại thấy nó dâng lên, lấp đầy lồng ngực mình, khiến bà thấy khó thở vô cùng.

Đột nhiên, Jess dừng xe lại. Bà táp bên lề đường, chỗ có trạm dừng xe buýt. Nguồn sáng phát ra từ tấm biển quảng cáo đủ để cho bà đỗ vào một khoảng nhiều ánh sáng hơn. Jess nhìn trân trân vào tấm biển quảng cáo. Một gia đình đang quây quầy bên bữa ăn, vẻ như ngon miệng. Người bố và người mẹ nhìn sang đứa con với ánh mắt trìu mến. Chỉ là quảng cáo một loại gia vị thôi, nhưng sao nó lại khiến Jess buồn và trống rỗng đến thế.

Đoạn, Jess bèn ra khỏi xe, tiện tay lấy bao thuốc và bật lửa từ chiếc túi xách. Một năm trở lại đây, Jess bắt đầu hút thuốc. Dĩ nhiên không bao giờ hút trước mặt các con; và cũng hiếm khi hút trước mặt Richard. Bà không muốn thói quen này gây ảnh hưởng xấu tới những người xung quanh mình, nhất là người thân. Những gì đã gây ra cho June là quá đủ rồi.

Jess tựa người vào nắp capo. Chiếc Mustang 1969 cũ kỹ của Jared. Bà nhớ nó là một trong những chiếc xe hiếm hoi mà Jared giữ lại trong bộ sưu tập của mình. Nhớ lần gặp phải sự cố đó, Jared đã bán gần hết những chiếc xe mà ông từng gọi là “cục cưng” chỉ để đầu tư vào xưởng sửa chữa hiện giờ. Có lẽ, Jared sẽ chẳng bao giờ quên được biến cố đó. Một sự kiện đáng buồn, khó quên trong cuộc đời. Jess mỉa mai nghĩ vậy. Nhưng cuộc đời bà cũng mỉa mai không kém phần ông đâu. Đôi lúc bà cũng muốn biết cách ông ấy đã dễ dàng vượt qua và đối mặt với mọi chuyện như thế nào.

Jess châm điếu và hút. Rít một hơi thật sâu, bà từ từ nhả đụm khói ra không khí. Chúng tan nhanh vào thinh không, giá lạnh. Đêm về khuya, trời như lạnh hơn. Jess thu mình vào trong chiếc áo khoác gió mỏng. Bà tiếp tục rít thuốc, một vài chiếc xe phóng vụt trước mặt. Đám thanh niên ngỗ ngược lại tìm cách trốn khỏi thị trấn để đến những tụ điểm ăn chơi ở thành phố. Chúng hò hét, buông dăm câu cợt nhả khi thấy Jess. Jess chẳng buồn đáp lại, tiếng cười cợt nhỏ dần, trả lại màn đêm lạnh, se sắt hơn. Jess vứt điếu thuốc hút dở xuống đất, không quên dùng chân di di vài lần cho tắt hẳn.

Bà lên xe, phóng thẳng về nông trại của Jared. Khoảng sân được thắp sáng bởi cột đèn cao áp loại nhỏ. Jess dễ dàng đậu xe trong khoảng sân vườn, cách gốc sồi cổ thụ vài bước chân. Lúc còn nhỏ, June luôn mơ ước có một cây cổ thụ trong vườn nhỏ để treo chiếc xích đu. Jess không cho xe vào gara mà đỗ gần thềm sân, bà chẳng biết xoay xở trong đó như thế nào. Chưa bao giờ sống ở đây, dù chỉ là một ngày nhưng bà luôn có một cảm giác khá thân thuộc, không thể diễn tả thành lời.

Jess tắt máy, xuống xe. Rảo bước nhanh qua bậc tam cấp vào trong nhà, bà tra chìa, rồi đẩy cửa vào. Chuông gắn cửa kêu lên từng tiếng leng keng nghe vui tai. Bà lần mò công tắc điện trong bóng tối. “Tách”. Theo đó, thứ ánh sáng vàng dịu lan tỏa khắp căn phòng, nom chừng ấm áp. Cởi áo khoác ra, Jess treo ngay ngắn trên mắc, thẳng tay lẳng chiếc túi xách xuống ghế sofa, rồi bà thả người xuống đó, thở dài một hơi đầy mệt mỏi. Jess ngả người, nhắm mắt, lấy hai tay day day thái dương. Cơn đau đầu vẫn âm ỉ mãi không dứt. Sau đó, bà quyết định đi tắm.

Tắm xong, Jess vào trong gian bếp kiểm tra tủ lạnh xem có gì ăn được không. Vài thứ đồ tươi đã bắt đầu phân hủy, tiện tay bà quẳng chúng vào sọt đựng rác. Xem chừng chỉ còn vài thứ đồ hộp là ăn được thôi. Một hộp cá mòi, một quả táo và vài muỗng siro dâu tây. Coi như cũng phần nào làm nguôi đi cơn đói. Jess thầm nghĩ.

Vừa ăn bà vừa quét ánh mắt qua gian phòng vài lượt, cách bài trí chẳng khác gì so với căn hộ cũ của họ trong thị trấn, chỉ là mọi thứ trông rộng rãi và thoáng đãng hơn. Vẫn là bộ sofa cũ mèm có họa tiết ca rô. Tấm thảm trải sàn mang phong cách boho khá bắt mắt. Một vài chiếc chuông gió được treo bên cửa sổ. Từ gian phòng nhìn thẳng vào căn bếp nhỏ, chỉ vừa kê một chiếc bàn ăn hình tròn, màu cánh gián. Dao và đồ dùng bếp được treo ngay ngắn trên bức tường, một chạn tủ nhỏ để đựng bát và đĩa. Phía bên phải phòng khách, cách cửa sổ lớn vài thước, rèm cửa màu xanh lạt im lìm. Chỗ đó vẫn để trống. Jess nhớ rằng, nếu như ở căn nhà cũ của họ, thì chỗ đó sẽ dùng để đặt cây đàn dương cầm cũ của bà. Khi trở về Dallas, Richard đã dành nguyên một căn phòng nhỏ chỉ để đặt chiếc dương cầm mới cáu, mà ông mua tặng bà nhân dịp sinh nhật năm kia. Cây đàn dương cầm cũ cũng được để trong đó, nhưng phủ vải trắng; và Jess chưa bao giờ dùng lại nó cả.

Jess bỏ chiếc thìa còn nguyên siro sang một bên. Bà nhắm mắt, chợt nhớ về giai điệu. Một hình ảnh của Jess còn trẻ, những ngón tay nõn nà, thả nhẹ trên phím đàn đen trắng. Những giai điệu cất lên, từ bản The Blue Danube Waltz sâu lắng của Johann Strauss Jr, tới giai điệu du dương của Autumn Leaves. Jess cứ thế thả trôi mình trong những giai điệu ấy.

Tiếng cạch của một vật thể lạ rơi bên phía ngoài căn nhà, khiến Jess dứt khỏi dòng hồi tưởng. Có lẽ do một con mèo hoang nào đó hay bà đã quá mệt, khiến tâm trí liên tục gây ra những ảo giác, nhiễu động.

Đoạn, Jess bỏ hộp cá mòi ăn dở trở lại tủ lạnh; cả hộp siro dâu tây, vài lát bánh mì nho khô cứng bà cho hết vào sọt rác. Jess uống một vài viên aspirin trước khi đi ngủ. Đêm nay, bà sẽ ngủ lại trong căn phòng của con.

Sự mệt mỏi tạm thiêu rụi đi những phiền muộn trong lòng Jess. Bà thiếp đi, may sao chẳng có cơn ác mộng nào ghé thăm.

*

Jess chẳng nhớ là đã ngủ trong bao lâu. Tiếng chuông điện thoại réo lên từng hồi bên góc nhà đã đánh thức bà. Do điện thoại sập nguồn nên Jared đã gọi vào số cố định. Jared có một ý tưởng, ông ấy đã trình bày qua điện thoại, giọng Jared có vẻ hào hứng. Bà chỉ đáp gọn lỏn bằng những từ ngắn gọn, bà đồng thuận với ý kiến của ông.

Jared muốn bà mang tới phòng bệnh vài bức vẽ của June, hiện đang nằm trong phòng con bé. Jess vội vàng nhỏm dậy, cảm thấy người đã đỡ mỏi nhức hơn hôm qua. Bà nhìn quanh căn phòng một lượt. Khá bừa bộn, Jess trộm nghĩ, cần phải dọn dẹp lại nơi này. Sau đó, Jess xuống nhà vệ sinh cá nhân và ăn sáng. Phía bên ngoài trời, những tia nắng hiếm hoi xuyên qua lớp mây bàng bạc, dày đặc chiếu thẳng vào khung cửa.

Ăn sáng xong, Jess cầm máy hút bụi lên phòng June. Đồ đạc khá bừa bộn, June chẳng bao giờ nghĩ tới chuyện dọn phòng nó. Jess nhớ có lần con nói rằng, bừa bộn tạo nên sự sáng tạo nghệ thuật. Nếu không biết đến những tin nhắn bắt nạt trong điện thoại thì khi nhìn căn phòng này, người ta chỉ liên tưởng đến một học sinh cấp ba rất đỗi bình thường. Bà dọn đống sách bừa bộn trên bàn học, vài cuốn sách nằm chỏng chơ khắp gian phòng, mỗi nơi một ít. Rồi bà phân loại chúng. Sách văn học, sách thiên văn hay sách về nghiên cứu mỹ thuật. Có một vài cuốn sách cũ, Jess để trong bìa các tông.

Rồi bà nhặt lên cuốn Cuộc phiêu lưu của Huckleberry Finn. Đó từng là cuốn sách mà June thích đọc nhất. Sinh nhật năm chín tuổi, bà đã tặng cuốn sách đó cho con. Jess vẫn nhớ lời đề tặng của mình. Bà vội vàng mở ra, vài trang giấy long ra vì sách đã cũ. Jess nhặt lên, bao gồm cả trang có lời đề tặng.

“Cho tưởng tượng, giấc mơ và những chuyến phiêu lưu kỳ diệu. Mẹ yêu con! June”.

 Jess nhìn dòng chữ nhỏ nhắn một hồi lâu. Sau đó, bà quyết định lấy keo dán và kim để khâu lại cuốn sách. Bà không để cuốn sách vào thùng các tông nữa, mà sẽ đem nó tới phòng bệnh cùng với các bức tranh.

Jess chuyển sang gấp lại đống quần áo trong tủ, bỏ hết những quần áo nhăn nhúm qua một bên, bà quyết định sẽ giặt và là lại chúng ngay. Sau khi đã gần như xong xuôi mọi thứ, Jess mới xem tới những bức tranh nằm ngổn ngang bên góc phòng, có một vài phác thảo vẫn nằm nguyên trên giá. Khung cảnh ấy mới xong được một nửa, trên bầu trời vẫn thiếu những đám mây. Jess xem xét một bức tranh. Bà lục tìm dưới gầm giường thì thấy một tập phác thảo, khá dày dặn, một vài bức còn mới, số còn lại như đã vẽ từ lâu. Bà phủi bụi, ngắm nghía. Chẳng hiểu sao con bé lại bỏ nó dưới gầm giường.

Jess tiến lại bên khung cửa sổ đầy đủ ánh sáng hơn, rồi ngồi xuống ghế. Bà bắt đầu lật giở từng bức tranh trong tập phác thảo. Con bé vẽ khá nhiều. Tất cả những gì vẽ trong tranh đều tái hiện lại khung cảnh của thị trấn Shadowfield. Một vài bức vẽ lại chân dung Jared đang hì hụi sửa chữa chiếc xe hỏng, thậm chí con bé còn vẽ cả chân dung khắc khổ của lão Geogre đang ngậm điếu thuốc trên môi, vẻ trầm tư. Jess dừng lại trước một bức tranh vẽ bà. Bà nhớ June đã từng vẽ bà vào cái lần dẫn con bé đi chơi quanh thị trấn, khi cả hai ngồi trên thảm cỏ. Con bé đã hứa rằng, nó sẽ cho bà xem lại bức tranh đó. Bẵng đi một thời gian, Jess quên khuấy đi mất, để rồi mọi lời hứa lại chìm vào lãng quên. Jess thầm trách sự vô tâm của chính mình.

Jess tiếp tục lật giở tập phác thảo. Đột nhiên, bà dừng lại. Trước mặt bà những bức tranh có vẻ gì đó khác biệt. Hình ảnh của một cô gái bí ẩn nào đó, trạc tuổi con bé. Có đôi chỗ không rõ ràng, có vài bức khi vẽ xong, June lấy màu khác vẽ đè lên như để che giấu một bí mật. Chúng khác biệt so với hầu hết những bức tranh đã xem, như thể không phải do June vẽ. Ai đó đã nhét nhầm vào đây sao? Jess tự hỏi. Bà xem xét kỹ các bức tranh một lần nữa, rồi phát hiện ra tất cả đều là do June vẽ, vì phía góc trái của mỗi bức tranh đều ký tên June, gồm cả ngày, tháng, năm hoàn thành.

Jess nhìn trân trân vào một phác thảo đầy đủ nhất. Cô gái lạ với mái tóc vàng sáng ngắn cắt bằng hiện ra mang gương mặt lạnh lùng, có vẻ gì thách thức. Ánh mắt màu xám tro thì toát lên vẻ sắc lạnh, gây chút khó chịu cho người đối diện. Vài bức phác thảo khác, hình ảnh của một mặt trăng ma quái đang tỏa thứ ánh sáng xanh lá ma mị. Cô gái này là ai? Một người bạn cùng trường của con bé chăng? Tại sao bà chưa thấy nó bao giờ? Biển suy nghĩ hỗn loạn khiến tâm trí Jess rối bời, mà chẳng biết xử trí ra sao. Rồi sau đó, bà gói ghém tất cả những bức tranh lại, bỏ vào một chiếc túi. Bà lái xe thẳng tới bệnh viện.

Jess đi lên phòng bệnh, Jared đang ngồi đọc báo trên ghế. Thấy Jess tới, ông bèn dẹp tờ báo qua một bên.

Jess ngồi xuống, lấy từ trong túi xách ra những bức tranh kỳ lạ. Bà bắt đầu vào chuyện.

“Anh đã bao giờ thấy những bức tranh này chưa?” – Jess hỏi, giơ tranh ra trước mặt Jared.

Ông cầm lấy, xem xét, vẻ đăm chiêu. Sau đó Jared lắc đầu nói:

“Anh e là chưa. Con bé chưa bao giờ chia sẻ những bức tranh của nó với anh.”

Jess trầm ngâm một hồi, bà chưa biết nói gì, ngoài những ngờ vực đang dâng lên trong lòng.

“Anh có biết những người bạn của con bé không?” – Jess lại hỏi.

“Dĩ nhiên. Nhưng con bé chẳng chơi thân với ai, ngoài thằng bé nhà White. Là Gavin White đó.” – Jared trình bày.

“Trong số những người bạn của June, có ai giống như này không. Cô gái trong bức tranh này.” – Jess tiếp tục hỏi.

Jared tần ngần, ông đưa bức tranh lên ngắm nghía một lần nữa, đăm chiêu hết sức. Cố lục lại trong suy nghĩ của mình những hình ảnh, nhưng Jared chẳng tìm được một chút thông tin nào. Con bé chưa bao giờ chia sẻ về chuyện trường lớp. Có lần Jared gặng hỏi, nhưng con bé nổi cáu nên ông đành thôi. Từ đó ông chẳng bao giờ dám đả động trực tiếp, thi thoảng chỉ dò hỏi tình hình qua Gavin hay cô Marry. J – giáo viên chủ nhiệm lớp.

“Anh e là không. Không hề có cô gái này.” – Jared trả lời.

“Tại sao?”

Jared bèn lắc đầu, ông không nói thêm nữa. Trong đầu ông giờ đây cũng có những nghi ngờ tương tự Jess. Ông nghĩ, có thể là một người bạn mới quen của June, nhưng tại sao ông chưa bao giờ thấy con bé nói về chuyện đó.

Cuộc trò chuyện bị cắt ngang bởi Bracher. Ông bước vào phòng, yêu cầu hai người đi ra ngoài, để ông và các y tá có thể kiểm tra định kỳ tình hình của June. Jared và Jess đi ra ngoài. Trên tay Jess vẫn cầm theo bức phác thảo. Cô gái ánh trăng, bà tạm gọi như vậy. Sau đó, bà đề nghị Jared gọi điện tới trường học để gặp Marry J.

Không lạ gì là cô Marry J khá bối rối khi Jared gọi. Cô hiển nhiên không rõ về mối quan hệ của học sinh với nhau nhưng cũng cố gắng chứng tỏ điều ngược lại. Dù vậy, Marry J vẫn có thể cung cấp một số thông tin, sau khi gửi lời thăm hỏi dành cho June. Một lát sau, Jared thông báo với Jess.

“Marry J. nói, trong lớp không có cô gái nào như thế cả. Và ở trường, June cũng không chơi với ai ngoài Gavin White.”

Mọi thứ vượt ra ngoài trí tưởng tượng của Jess, bởi lẽ cô gái trong bức tranh không có thật. Jess nhìn lại bức tranh một lần nữa, đôi mắt màu xám tro như xoáy sâu vào trong mắt bà, khiến bà thoáng chút rùng mình.

Jared và Jess cùng trở lại phòng bệnh khi Bracher đi ra. Ông ấy nói tình hình của June vẫn ổn định, dù không có tiến triển gì thêm. Jess nghe vậy liền thấy lòng chùng xuống. Thà ông ta chẳng nói còn hơn, nhưng thiết nghĩ đó là công việc. Jess cảm ơn Bracher, rồi bà đi thẳng vào phòng, trên tay vẫn nắm chặt những bức vẽ của June.

Sau đó, bà lặng lẽ treo chúng lên, thậm chí ngay bên giường bệnh. Còn bức họa phác thảo cô gái ánh trăng, Jess vẫn giữ bên mình. Bà cảm thấy không thật sự cần thiết, hoặc chút gì đó bất an. Trực giác đã mách bảo bà như vậy, dẫu mọi thứ không hề chắc chắn.

Bà ngắm nhìn thành quả của mình. Những bức tranh trở nên sinh động hơn, giá như con bé có thể tỉnh lại để xem cảnh tượng này. Nắm lấy bàn tay bé nhỏ, khá lạnh của June. Jess nhớ lại.

*

“Bây giờ, thằng Tom đã gần khỏi hẳn. Nó buộc viên đạn vào một cái dây đeo lên cổ để làm cái đồng hồ và thỉnh thoảng lại giở ra xem giờ.

Tôi không biết viết gì thêm nữa cho cuốn sách này. Nếu như tôi biết là viết một cuốn sách sẽ khó khăn như thế nào thì tôi chẳng viết, mà cũng không có ý định viết nữa. Nhưng dù sao, tôi cũng phải đi ngay đến địa phận của những người da đỏ vì dì Saly định nuôi tôi và khai hóa cho tôi; mà tôi thì không chịu được điều đó, tôi đã thừa biết về nó rồi.”

Jess ngừng, bà gập lại cuốn sách, chăm chú nhìn vào June. Con bé bèn lên tiếng:

“Như vậy là cuộc phiêu lưu của Huckleberry Finn và Jim sẽ không bao giờ kết thúc phải không?”

Jess gật đầu và nói:

“Hai đứa sẽ xuôi mãi theo dòng Mississippi, và những gì còn lại đều đẹp đẽ như thế. Tình bạn và sự hi sinh cho nhau.”

Jess cảm thấy câu nói của mình có phần hơi trừu tượng nên bà bèn dừng lại, vì sợ con khó hiểu. Dẫu biết rằng, người Mỹ nào cũng cần hiểu về Huck hay Mark Twain. Đặt cuốn sách xuống chiếc bàn bên cạnh đầu giường, Jess vuốt ve mái tóc của June, nhìn âu yếm.

“Sau này con cũng sẽ thực hiện những cuộc phiêu lưu như Huck và Jim, con sẽ băng qua những vùng hoang mạc của nước Mỹ, và thậm chí là xuôi theo dòng Mississippi. Khi đó, ba mẹ đừng cấm cản con điều gì nhé!”

Jess chỉ cười và sau đó bà nói:

“Không hề. Mẹ và ba Jared sẽ chẳng bao giờ ngăn cản ước mơ của con. Nhớ giữ lấy nó.”

Jess nắm chặt tay đứa con gái bé bỏng, và nói thêm:

“Giờ thì đi ngủ thôi.”

June mỉm cười, rồi nhắm tịt mắt. Bà hôn nhẹ lên vầng trán của con, cầu chúc những điều tốt đẹp.

*

Tiếng gió đập vào cửa khiến Jess giật thột, choàng tỉnh. Bà dáo dác nhìn quanh, vẻ như hoảng hốt. Bà đã thiếp đi một lúc. Nhìn về phía cánh cửa, rèm bay phần phật trong cơn gió rít mạnh từng lần.

Cơn gió thổi mạnh, hất tung những bức tranh ban nãy bà không treo lên. Jess vội vàng thu lượm lại. Khi ấy bà nhận ra phòng vẫn chưa bật đèn, thứ ánh sáng duy nhất hắt từ bên ngoài hành lang vào. Bà vội nhặt lại những bức tranh, rồi đóng chặt cánh cửa. Jess ngồi xuống ghế, trong ánh sáng tờ mờ, những hình nét về cô gái ánh trăng hiện rõ, phủ một lớp ma mị trên gương mặt lạnh tanh. Đôi mắt dường như đang trở nên sống động. Jess hoảng hốt gấp chúng lại, để sâu vào trong ngăn kéo.

***

Tảng đá nặng trịch rơi xuống lấp kín cửa hang. Trời bỗng tối như bưng, June lấy tay mò mẫm, rồi nó nhận ra xung quanh toàn đá là đá.

Nó không còn nghe thấy tiếng la hét của Gavin nữa. Tiến lại gần cửa hang, nó rà tay quanh tảng đá xù xì, dính thứ gì đó nhớp nhúa. Biết không thể dùng sức, nhưng nó vẫn cố gắng ẩy thân hình nhỏ bé về phía tảng đá. Lát sau, nó ngồi bệt xuống đất, thở hổn hển, bất lực. Nó nghĩ mình sẽ bị mắc kẹt ở đây mất thôi.

Một lát sau, June quyết định đi sâu vào trong hang, biết đâu lại tìm ra một lối khác thì sao. Nó đã từng đọc đâu đó về trường hợp tương tự như vậy. Khi cửa hang bị lấp kín, người ta sẽ đi sâu vào trong, thể nào cũng sẽ có lối thông thoát. Nghĩ vậy, nó đứng dậy, dò dẫm từng bước về phía trước. Nó đi mãi, tới khi vài tia sáng xuất hiện. Nó phát hiện ra một lỗ hổng trên trần hang. Nó bèn trèo lên. Lần thứ nhất, nó ngã phịch xuống đất, đau điếng người, vì những phiến đá trơn nhẵn như bôi mỡ không thể trèo lên được. Nỗ lực lần thứ hai, thứ ba đều thất bại.

Sau đó, nó bèn nghĩ ra một kế. Nó quyết định lấy những phiến đá vừa nằm rải rác trên mặt đất, xếp chồng lên nhau. Vì trần hang cũng không quá cao, nếu xếp tới độ nhất định, nó có thể trèo lên phía trên được. Khoảng ba mươi phút sau, nó đã tạo được một bục đứng khá cao từ những phiến đá vụn. June trèo lên và nhìn thấy phía trên là một hành lang rộng, khoảng không gian như bị thứ ánh sáng mạnh hắt vào. Dụi mắt vài lần June mới nhìn rõ mọi thứ. Nó đặt hai tay lên mặt sàn đá, dồn lực, bật mạnh chân. Nó nhảy lên trên, thoát khỏi cái hang tăm tối. Lại là một hành lang rộng lớn khác trong tòa tháp. Giờ nó không biết được mình đang ở tầng thứ bao nhiêu của tòa lâu đài. Nhưng thây kệ, nó tiến thẳng về phía trước. Nó chỉ nghĩ tới Gavin thôi. Nó hy vọng sẽ tìm được cậu ấy.

Đi tới cuối hàng lang, nó buộc phải rẽ phải. Hướng đi bị thu hẹp lại rất nhiều. Không gian phía trước mờ mịt dần, màn sương trắng làm giảm tầm nhìn của nó, nhiệt độ cũng giảm dần, nó cảm thấy khá lạnh.

Rồi June thận trọng từng bước. Đột nhiên, nó cảm thấy như ai đó đang bước đi sau mình, nhưng khi dừng lại thì mọi thứ lại im lặng. June bước tiếp, tiếng bước chân rõ hơn. Nó dừng lại. Im lặng. Nó bước tiếp. Vẫn là tiếng bước chân đó. June quay lại nhưng chẳng thể thấy gì.

“Ai đó?” – June cất tiếng hỏi.

Đáp lại chỉ là tiếng vang của chính giọng nó.

Sau đó, June rảo bước thật nhanh, gần như là chạy. Nó nghe rõ mồn một, tiếng bước chân đuổi theo. Nó chạy nhanh hơn, gió rít mạnh bên tai. Nó bước hụt xuống một cái hố. Chết chắc rồi. Nhắm tịt mắt lại, nó thấy mình rơi mãi, như thể rơi xuống một cái hố không đáy vậy.

June ngất đi một lúc. Nó biết điều đó, bởi trong vô thức nó cứ rơi mãi cho tới khi đáp xuống một căn phòng có dạng hình tròn. Toàn bộ được lát thứ gạch màu đen huyền bí, bóng loáng. Nhìn xuống dưới chân, nó thấy hình ảnh phản chiếu méo mó của bản thân. Gương mặt chảy xệ, hai tròng mắt đen ngòm rơi ra khỏi hốc mắt, lăn tròn trên nền đất.

Nó thét lên kinh hãi.

“June.”

Nó choàng tỉnh. Hóa ra chỉ là cơn ác mộng. Khi ấy, nó nhận ra mình đang nằm sõng soài ở trong căn phòng vừa mơ ban nãy. Sàn nhà lạnh ngắt như sân trượt băng. Hơi thở nó yếu ớt, làn khói trắng mỏng phả ra từ miệng. Đây là đâu? Nó tự hỏi.

“Cậu tỉnh rồi.” – Một giọng nói mơ hồ vang lên khiến June khẽ giật mình, dáo dác nhìn quanh để tìm hiểu.

Đoạn, nó gắng dậy, dù thân người đau nhức vô cùng. June quét quanh căn phòng một lượt, cho tới khi ánh mắt của nó dừng lại ở một người. Dáng hình cao dong dỏng quen thuộc và mái tóc ngắn cá tính. Lucine! Chính là cô ấy!

“June.” – Lucine gọi, nó gần như á khẩu chẳng thốt thành lời.

 

 

Key liên quan:

  • Cô gái ánh trăng
No votes yet.
Please wait...